Tịnh Độ Đại Kinh
Giải Diễn Nghĩa
淨土大經解演義
Phần 60
Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự
đệ tử Như Ḥa
Giảo duyệt: Huệ Trang và
Đức Phong
Tập
119
Chư vị pháp sư, chư vị
đồng học, xin hăy ngồi xuống.
Xin xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang một trăm ba
mươi tám, hàng thứ sáu từ
dưới đếm lên, xem từ đoạn này.
“Hựu vân: Quán chư pháp Không, thị danh Không. Ư Không trung, bất khả thủ
tướng, thị thời, Không chuyển danh Vô Tướng. Vô Tướng
trung,
bất ưng hữu sở tác vi tam giới sanh, thị thời, Vô Tướng chuyển danh Vô Tác (tức Vô
Nguyện)” (Lại
nói: “Quán các pháp là Không, nên gọi là Không. Trong cái Không đó, chẳng thể giữ lấy
tướng, ngay khi ấy, cái Không đổi tên là Vô Tướng. Trong Vô Tướng, chớ nên có thứ ǵ được
làm để sanh trong tam giới,
nên ngay khi ấy, Vô Tướng đổi tên là Vô Tác, tức là Vô Nguyện). Chúng ta xem từ chỗ này,
vẫn là những điều được nói trong Trí
Độ Luận, dạy chúng ta trong cuộc sống hằng ngày thấy
thấu suốt và buông xuống như thế nào. “Quán chư
pháp Không”
được kinh Bát Nhă giảng
nhiều nhất. Trong các đồng học, rất nhiều
vị đă đọc kinh Kim Cang Bát Nhă. Kinh Kim Cang chẳng dài, Thiền Tông Lục Tổ Huệ Năng đại sư khai ngộ do kinh ấy. Do vậy, bộ kinh ấy
trở thành kinh bậc nhất và cơ bản trong
Thiền Tông, biến thành một
khóa tŕnh phải tu học. Kinh văn chẳng dài lắm, đại khái chỉ
có hơn năm ngàn chữ, do ngài
Cưu Ma La Thập phiên dịch, vô cùng thích hợp khẩu vị của người Trung Quốc, nên người niệm
[kinh Kim Cang] đặc biệt nhiều. Câu quan trọng nhất trong kinh, cũng là câu
khiến cho ngài Huệ Năng khai
ngộ là “ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm” (đừng nên trụ vào đâu để
sanh tâm). Câu ấy dạy chúng ta cách nh́n vạn
sự vạn vật trong toàn thể vũ trụ, nói rất đơn giản, rất rơ
ràng, dạy chúng ta thấy hết thảy
sự vật: “Phàm những ǵ có tướng đều là hư
vọng”. Đó là quán các pháp Không, tức là Không Giải
Thoát môn trong ba môn giải thoát.
Không ở chỗ
nào? Không ở trong Sắc,
Sắc tức là Không.
Không chẳng ở bên ngoài, mà từ ngay trong vạn
sự, vạn pháp, quư vị thấy
Không. V́ sao có thể thấy Không? Quư vị thấy tất cả hết
thảy các pháp đều do nhân duyên sanh,
như Trung Quán Luận đă nói: “Nhân duyên sở sanh pháp, ngă
thuyết tức thị Không” (pháp do nhân duyên sanh, ta nói chính là Không), “ta”
ở đây là đức Phật nói. Các pháp do nhân duyên sanh, chẳng có
tự thể. Chúng ta thường cầm tràng hạt (xâu chuỗi), chúng ta thấy nó là một
chuỗi, hăy thấy bản thể
của nó là Không. Tràng hạt là từng hạt một, do
một sợi dây xâu lại, nó là duyên sanh (do các duyên hội
tụ mà sanh ra). Chúng ta tháo sợi dây ấy ra,
từng hạt từng hạt một [tách rời],
tướng tràng hạt chẳng c̣n nữa. Đối với từng hạt, chúng ta thấy
nó là hạt cây, do cây sanh ra, nên [mỗi
hạt] cũng là pháp sanh
bởi nhân duyên. Duyên tụ, bèn có
một hạt xâu chuỗi; khi
duyên tán, hạt xâu chuỗi chẳng c̣n nữa, biến
thành bột! Bỏ đó đă lâu, quư vị
chẳng dùng đến nó, bỏ mặc đó, nó sẽ biến thành bột, gió vừa thổi bèn tan mất. Tụ th́ nó có tướng; tán th́ tướng chẳng c̣n nữa!
Chẳng cần chờ nó tán, quư vị mới biết là
Không, mà hiện thời đă biết nó
là Không. Tướng của nó chẳng thể duy tŕ vĩnh cửu! Nói chung, sẽ có ngày nó hư hoại, tan
mất, bản thể chính là Không, đó là trí huệ. Chúng ta thấy
hết thảy các pháp đều như thế,
kể cả các tinh cầu cũng chẳng ra ngoài lệ ấy. Nếu chúng ta có dịp đến thăm
đài Thiên Văn, gần như sẽ thường
thấy các tinh cầu bùng nổ trong không gian, những tinh cầu ấy
chẳng c̣n nữa. V́ thế, đối với với sự tồn tại của tinh
cầu, kinh Phật nói là “thành, trụ, hoại, không”, tinh cầu chẳng có! Cũng rất có
thể là chúng ta thường phát hiện: Ở nơi
đây vốn chẳng có tinh cầu, đột nhiên xuất hiện một ngôi sao sáng lấp
lánh, chúng ta biết là một ngôi sao mới
h́nh thành. Đấy cũng là nói các ngôi sao già đă tử
vong, hủy diệt; trong vũ trụ có
thành, trụ, hoại, không. Quư vị biết thứ ǵ cũng đều là vô thường, không chỉ là “biển xanh,
nương dâu”. Nếu chúng ta rất lắng ḷng quan sát, sẽ biết hết thảy các
pháp “hễ duyên tụ bèn có, duyên tán
bèn không”, nên
biết là Không! Đă biết là Không, nên đối với
Không, chớ nên chấp tướng!
Ǵ là Không? Tướng là Không, tất cả các tướng là Không. Tất cả các tướng,
động vật có sanh, lăo, bệnh,
tử, thời gian tồn tại chẳng dài. Con người sống trong thế gian này, chúng ta nghĩ tới các thế hệ trước, thế
hệ cha mẹ đă khuất, thế hệ ông bà đă
khuất. Trong ḍng thời gian dài vô hạn, họ chỉ tồn tại một
thời gian ngắn, trước giai đoạn ngắn ngủi đó,
chẳng có họ, sau giai đoạn ngắn
ngủi đó, cũng chẳng có họ,
đều chẳng c̣n! Sau đấy, lập tức nghĩ đến chính ḿnh, bản thân chúng ta cũng chiếm một khoảng ngắn trong ḍng thời gian dài
dằng dặc. Có
người thời gian ngắn một chút, ba bốn
mươi tuổi đă mất, thời gian ngắn chủn! Có người
thời gian dài hơn một chút, nhưng bảy
tám mươi tuổi cũng đi. Cổ nhân Trung Quốc nói người ngoài bảy mươi tuổi là: “Nhân sanh thất thập cổ lai hy” (người bảy mươi tuổi
xưa nay hiếm), người trên bảy mươi chẳng nhiều lắm, người chưa
đến bảy mươi đă mất rất nhiều. Do
vậy, chúng ta phải hiểu toàn là rỗng tuếch. Nếu toàn là rỗng tuếch,
ở đây, “bất khả thủ”
(chẳng thể chấp lấy) là “đừng chấp tướng”. Chấp tướng là sai mất rồi! Đối
với những tướng ấy, chớ nên chấp
trước, chớ nên phân
biệt. Đại Thừa Bồ
Tát không chỉ chẳng phân biệt, chẳng chấp trước, mà đối với hết thảy các tướng đều chẳng khởi tâm, không động niệm, hạng người nào
vậy? Kinh nói những vị đại sĩ, các
vị Bồ Tát, được gọi là cao nhân, các Ngài chẳng khởi tâm, không động niệm, chẳng có
phiền năo, chẳng tạo
nghiệp, vô cùng cao minh. Các Ngài trọn chẳng bỏ tướng, v́ sao?
Chẳng cần thiết! Tướng là huyễn tướng, đều là chẳng thật. Đă hiểu rơ,
đối với những tướng ấy, chẳng
khởi tâm, chẳng động niệm, chẳng phân
biệt, chẳng chấp trước, những vị ấy là Phật, là Pháp Thân Bồ Tát. Khi đó, chẳng
gọi là Không, mà gọi là Vô Tướng. Thấy những tướng
ấy, chẳng dùng danh từ Không, mà dùng chữ Vô Tướng.
Tiếp đó, chúng ta biết tướng là giả. Do tướng là giả,
chớ nên có những “tác vi”
(tạo nghiệp) khiến phải
sanh trong tam giới. Tam
giới là Dục Giới, Sắc Giới, Vô Sắc Giới, đó là nói tới lục
đạo luân hồi, chớ nên có những tác vi trong
lục đạo. “Tác vi” là ǵ? Làm thiện, làm ác, làm vô kư (chẳng
thiện, chẳng ác). Khoan nói đến vô kư, chúng ta chỉ bàn
về thiện và ác, chớ nên tạo tác.
Nếu quư vị làm lành, sẽ là ba thiện đạo, quả báo ở trong ba
đường lành. Nếu quư vị tạo nghiệp bất thiện, quả báo ở
trong ba đường ác, [nhưng làm lành hay làm ác]
đều là tạo nghiệp luân hồi. “Bất ưng hữu sở tác” (chớ nên có tác
vi) là ǵ? Học theo Phật, Bồ Tát. Thích Ca Mâu Ni Phật
cũng thị hiện trụ
trong thế gian này tám mươi năm, người ngoại quốc nói là
bảy mươi chín tuổi, nói
theo tuổi thật, người Trung Quốc nói theo “hư tuế” (tuổi ta) là tám mươi tuổi, cũng là
sống một khoảng thời gian dài ngần ấy. Quư
vị thấy Ngài có thể “làm mà chẳng làm, chẳng làm
mà làm”, đó là đúng. Suốt cả
một đời là như thế nào? Chẳng tạo nghiệp, chẳng tạo ác
nghiệp, thiện nghiệp
cũng không tạo, cao lắm! Ngài chẳng luân hồi. Trong phần trước, chúng tôi đă nói
với quư vị về mười hai nhân duyên. Trong mười hai nhân duyên, Ái, Thủ,
Hữu là tạo nhân trong một đời này, các Ngài có bản lănh. Quư vị thấy: Biểu hiện Ái, biểu hiện Thủ,
nhưng sau đó chẳng có Hữu. Đó là chuyện
như thế nào? Vị ấy chẳng phân biệt, chẳng chấp trước, đó là Tiểu Thừa. Nếu vị ấy chẳng khởi tâm, không động niệm th́ là Đại Thừa. Chúng
ta có thể lư giải v́ sao các Pháp Thân Bồ Tát chẳng tạo nghiệp. Pháp
Thân Bồ Tát ai nấy đều là bậc minh tâm kiến tánh, đại triệt
đại ngộ, các Ngài có thể
hằng thuận chúng sanh, ḥa quang đồng trần cùng chúng sanh, chẳng khởi
tâm động niệm, chẳng phân biệt, chấp trước. Biểu hiện giúp đỡ chúng sanh bằng vô tận phương tiện thiện
xảo. Giúp đỡ chúng sanh, thành tựu chúng sanh; trong ấy, quan
trọng nhất là khơi gợi, dẫn dắt chúng sanh, giúp họ khai trí huệ, khiến cho họ dần dần giác ngộ. Chưa
thể giác ngộ th́ kéo họ tới gần giác ngộ; rất
gần với giác ngộ, giúp cho họ hoát nhiên đại ngộ. Các vị Phật, Bồ Tát có năng
lực như thế, xác thực là trong tự tánh tỏ lộ trí huệ và đức năng. Nếu nghiệp chướng của
chúng ta không quá nặng, sau khi
gặp gỡ, chắc chắn sẽ thành tựu trong
một đời. Kẻ nghiệp chướng sâu nặng gặp
gỡ, phải tiêu trừ nghiệp chướng trên
một mức độ lớn. Chúng ta dùng mười hai nhân duyên để nói th́: Về biểu hiện, bèn có Ái và
Thủ, nhưng chẳng phân biệt, chấp trước;
khi ấy, gọi là Vô Tác. Trong Phật
pháp thường nói: “Làm mà
chẳng làm, chẳng làm mà làm” chính là ư nghĩa này. Chẳng làm, nhưng có làm th́ vẫn là không làm, vô nguyện mà! Nguyện
và Tác có cùng một ư nghĩa.
“Thí như thành hữu tam môn” (Ví
như cái thành có ba cửa).
Một người là một thân thể, chẳng có cách nào cùng một lúc vào cả ba
cửa, muốn vào chỉ có thể theo một cửa. “Chư pháp Thật Tướng” (Thật Tướng của các pháp) được tỷ dụ là “Niết Bàn thành”. “Thành hữu tam môn: Không, Vô Tướng, Vô Tác. Nhược nhân nhập Không môn, bất đắc thị Không, diệc bất
thủ tướng” (thành có
ba cửa: Không, Vô Tướng, Vô Tác. Nếu người
theo cửa Không mà vào, chẳng thấy là Không, cũng
chẳng chấp tướng). Tốt lắm, theo cửa
Không để vào. “Bất
đắc thị Không” là chẳng chấp trước
Không, “diệc bất thủ
tướng” là chẳng chấp Có, trong phần
trước nói là “chẳng trụ vô vi,
chẳng trụ hữu vi”. “Vi” (為) là làm. “Chẳng chấp
trước vô vi” là
chẳng chấp trước Không; “chẳng chấp
trước hữu vi” là chẳng chấp trước Có. Hai bên Không và Có đều chẳng chấp
trước, người ấy đă tiến nhập. Nhập là ǵ? Đă khai ngộ, minh tâm
kiến tánh, đại triệt
đại ngộ. Do vậy, đối với hai môn sau là Vô
Tướng và Vô Nguyện, chẳng cần phải quan tâm
tới, v́ đă vào được cửa rồi! Chỉ cần nhập
một môn, môn nào công đức cũng viên măn, thành tựu
viên măn.
“Nhược nhân nhập Không môn thủ tướng đắc thị Không”, [nghĩa là] [người ấy] theo cửa Không để vào bèn
chấp Không, chấp lấy tướng “đă đắc
Không”, người ấy là ai? Tiểu
Thừa A La Hán, hoặc Tiểu Thừa Bích Chi Phật, họ
đích xác là như thế, cho nên [cảnh giới họ chứng đắc] gọi là Thiên Chân Niết Bàn, chấp trước Không! Niết Bàn ấy
chẳng phải là Niết Bàn thật
sự, chấp trước Không mà! Hàng Nhị
Thừa chấp Không, Quyền
Giáo Bồ Tát chấp Có. Quyền Giáo Bồ Tát tức là
Bồ Tát trong mười pháp giới. Chấp Có, bèn chẳng có cách nào
chứng Đại Bát Niết Bàn. Thanh Văn và Duyên Giác chứng Tương Tự Tiểu Niết Bàn, tự cho là đă tiến nhập ba giải thoát môn,
nhưng do chấp vào tướng “tiến nhập”, nên chẳng có tác dụng! Trong giáo pháp
Đại Thừa, đức Phật gọi chấp
tướng là “hầm vô vi”. Hàng Tiểu Thừa rớt vào hầm vô vi, nhưng họ có
thể thoát ra. A La Hán chậm lụt hơn, phải hai
vạn kiếp mới hồi Tiểu hướng Đại, thoát ra.
Chỉ cần chẳng chấp
trước bèn thoát ra. Duyên Giác thông minh hơn, một
vạn đại kiếp bèn giác
ngộ, cũng thoát ra. Vừa thoát ra, Ngài bèn thành Bồ Tát, thuộc tầng thứ ba trong bốn thánh pháp giới.
Tầng cao nhất là Phật. Thiên Thai
đại sư gọi vị Phật ấy là
Tương Tự Tức Phật, chẳng phải là Chân Phật, mà là tương tự. V́ sao chẳng phải là chân Phật? Phật và phàm phu khác
biệt [ở chỗ]: Phật
dùng chân tâm, phàm phu dùng vọng tâm, tức là dùng A Lại Da, ngỡ A Lại Da là chân tâm. Phật và Bồ Tát
trong bốn thánh pháp vẫn dùng A Lại Da,
cũng có thể nói là
chưa thể “chuyển tám thức thành bốn trí”. Nếu thật sự chuyển được, chuyển biến A Lại Da thành Đại
Viên Kính Trí, sẽ là chân Phật, chẳng phải là giả
Phật! Hễ chuyển, mười pháp giới chẳng c̣n nữa! Chư
vị phải biết v́ sao? Mười pháp giới do A Lại Da biến, A Lại Da vừa
chuyển thành Đại Viên Kính Trí, cái nhân chẳng c̣n, nhân
của mười pháp giới bèn đoạn. Do vậy,
họ từ mười pháp giới
tỉnh ngộ, giống như nằm mộng, đă tỉnh mộng rồi!
Tỉnh ngộ là cảnh giới ǵ? Là cơi Thật Báo Trang Nghiêm
của chư Phật Như Lai, thật sự đă thành Phật; lúc ấy, Thiên
Thai đại sư gọi người đó là Phần
Chứng Tức Phật.
Sau đó c̣n có [những quả vị] viên
măn hơn, người ấy chưa chứng đắc viên măn, viên măn là Thường Tịch
Quang. Người ấy
phải đợi một thời gian trong cơi Thật Báo,
ở trong ấy để làm ǵ? Chờ cho tập khí vô
thỉ vô minh tự nhiên tiêu trừ. Ở đây, chẳng có phương pháp!
Nếu nói ta dùng phương pháp ǵ để diệt trừ tập khí vô minh, th́ vừa động niệm bèn
hỏng mất rồi, lại mê rồi! V́ thế, trong cảnh giới ấy, cứ để mặc nó. Sau một
thời gian dài, sẽ tự nhiên chẳng c̣n nữa! Phải mất thời gian bao lâu? Kinh Đại Thừa nói là ba
đại A-tăng-kỳ kiếp. V́ thế, ba đại
A-tăng-kỳ kiếp chẳng phải là nói ǵ khác,
mà là nói về chuyện này, tính từ ngày đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh! Tức là nói: Tính từ lúc quư vị
chứng đắc địa vị Sơ Trụ trong Viên
Giáo, tính từ lúc quư vị sanh
vào cơi Thật Báo Trang Nghiêm, trải qua ba đại A-tăng-kỳ
kiếp, tập khí tự nhiên chẳng c̣n nữa. Bồ
Tát khi đó, trong kinh này cũng có một thuật ngữ là
“vô công dụng đạo”, trong Tông môn gọi là “thử xứ dụng bất đắc lực”
(ở nơi đây, sử dụng chẳng đắc
lực), chẳng có cách nào ra
sức, có muốn cũng chẳng thể được,
nó tự nhiên sẽ chẳng c̣n. Thật sự đoạn
vô minh phiền năo,
thật sự chẳng khởi tâm, không động niệm. V́
thế, bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ, nói theo thực tế là pháp giới b́nh đẳng, thật sự b́nh
đẳng, trí huệ, thần thông, đạo lực đều b́nh đẳng, một chút tập khí vô
thỉ vô minh chẳng trở
ngại sự. Trong cảnh giới
ấy, Bồ Tát c̣n có sự hay không? Có chứ! Quư vị
thấy Thích Ca Mâu Ni Phật
giảng kinh, vị ấy có
đến nghe hay không? Đến làm Ảnh Hưởng
Chúng, đó là Sự. Ngài đến thế giới này để nghe kinh, đến đi tự tại. Đồng thời, nếu Ngài và chúng sanh có
duyên, Ngài bèn có thể ứng theo khả
năng hiểu biết của chúng sanh; đó là “Sự” của Ngài. Tuy có
vô lượng vô biên sự, Ngài chẳng hề khởi tâm động niệm; đó là Vô Tác. Chẳng làm mà làm, làm mà chẳng làm!
Tuy cảnh giới
ấy cách biệt chúng ta rất xa, nhưng chúng ta biết.
Trong kinh, chúng ta đă nghe đức Phật dạy như
thế, chúng ta đă hiểu rơ, đă nghe hiểu. Đă
nghe hiểu, sẽ có ích rất lớn cho sự tu hành
của chúng ta. Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta
phải học tập, bất luận làm chuyện ǵ,
chúng ta đều có tập khí, phải học như
thế nào? Tập khí của chúng ta nhạt bớt một
chút th́ tốt! Mỗi năm
một nhạt bớt hơn, điều này cũng
rất đắc lực.
Nếu có thể là mỗi tháng một nhạt bớt
hơn, quư vị sẽ nhanh chóng đạt đến
cảnh giới thành công. Đặc biệt là phải cảnh tỉnh chính ḿnh, chính
ḿnh phải có tánh cảnh giác; trong hết thảy các
cảnh giới, chớ nên có t́nh chấp quá nồng
đậm, đó chẳng phải là chuyện tốt
đẹp, mà là nghiệp chướng.
Phải dần dần nhạt bớt t́nh
chấp, phải dùng Phật pháp để cảm hóa
người nhà, quyến thuộc. Chúng ta tu rất khá, một nhà ḥa thuận, một nhà hoan hỷ. Người khác thấy quư vị rất vui
vẻ, tự nhiên hướng về quư vị học
tập. Đối với những chuyện chẳng
đúng pháp của họ, quư
vị phải có phương tiện
thiện xảo, chớ nên nói “chẳng quen nh́n”, quư vị đang tạo tội nghiệp
đấy! Nhất là quư vị học Phật, ăn chay, họ vẫn c̣n ăn
thịt, chớ nên chướng ngại họ, hăy tùy
thuận, họ sẽ vui vẻ. Nếu quư vị phê b́nh họ, trong tâm họ
rất khó chịu, họ và quư vị trở thành hai phía
đối lập, sai mất rồi! Hăy làm cho họ dần
dần tự giác ngộ, quay
đầu.
Sau khi
Đệ Nhị Thế Chiến kết thúc, tôi đến Đài Loan, đến một ḿnh. Tại Đài Loan, gặp gỡ
Phật pháp, cũng xuất gia tại Đài Loan, thuở ấy
cũng giảng kinh khắp nơi trên đảo Đài
Loan. Năm 1977, tôi
đến Hương Cảng giảng kinh lần đầu, kết pháp duyên với
đồng tu Hương Cảng. H́nh như là vào năm
Dân Quốc 82 (1993) hay năm 83 (1994), tôi bắt được liên lạc với
người nhà. Gián đoạn suốt ba mươi sáu
năm, ba mươi sáu năm chẳng có tin tức, nay biết mẹ và em trai vẫn
c̣n. Một năm sau đó, tôi đến Hương
Cảng giảng kinh [lần nữa], bảo họ
đến Hương Cảng, mẹ
và tôi gặp mặt, gián
đoạn suốt ba mươi sáu năm,
lần đầu tiên gặp lại tại
Hương Cảng. Bà thấy tôi đă xuất gia, thấy
tôi giảng kinh thính chúng
đông đảo, cũng rất
hoan hỷ. Tại Hương Cảng, chúng tôi ở tại Trung Hoa
Phật Giáo Đồ Thư Quán do lăo pháp sư Đàm
Hư sáng lập, buổi tối tôi giảng kinh ở
đó. Bữa trưa cũng dùng cơm tại đó.
Tôi hỏi mẹ tôi muốn ăn ǵ? Bà muốn ăn cá. Tôi dặn
nhà bếp mỗi ngày chưng cho bà hai con cá
nhỏ. Bà ở đó suốt một tuần, thấy t́nh
h́nh của chúng tôi như vậy, tôi chẳng khuyên bà ăn
chay, mà kể với bà những điều tốt
đẹp trong Phật pháp, khuyên bà niệm A Di Đà Phật, đương nhiên có thể ăn chay là tốt nhất. Tôi nói với mẹ: “Con đă ăn chay vài
chục năm rồi, thân thể rất khỏe”. Sau khi bà
trở về Thượng Hải, bà ở nhà em trai tôi, họ sống
tại Thượng Hải, sau khi quay về, bà đă ăn chay trường. Tốt
lắm! Chớ nên khuyên, khuyên sẽ gây ác cảm. V́
thế, nhất định phải dùng ḷng quan tâm, yêu
thương để giúp đỡ họ, dần dần chuyển biến họ.
Người b́nh thường chẳng biết lợi ích do ăn chay, nghĩ
ăn chay bị thiếu dinh
dưỡng, đó là quan niệm sai
lầm. Chúng ta biết lợi ích
của sự ăn chay, ăn chay khỏe mạnh. Đă
nhiều năm qua, nhất là trong mười mấy
năm gần đây, chúng tôi mở rộng phạm vi hoạt động, tham
dự hội nghị ḥa b́nh quốc tế của Liên
Hiệp Quốc, đi khắp nơi, quen biết
rất nhiều bằng hữu mới. Trong nhiều năm qua, vấn
đề nóng bỏng nhất mỗi
khi bạn bè tụ hội là
họ hay hỏi tôi cách bảo dưỡng
thân thể như thế nào? Mọi người
đều hỏi chuyện này, có thể thấy họ
rất quan tâm thân thể. Tôi bảo họ, có hai
phương pháp bảo dưỡng thân thể: Một là tâm thanh tịnh, hai là ăn chay. Tôi nói: “Quư vị hỏi tôi, th́ tôi bảo
dưỡng như vậy đó, chẳng dùng bất
cứ loại thuốc bổ nào, mà cũng chẳng có
thuốc men ǵ! Cuộc sống của tôi rất đơn
giản, lại c̣n ăn rất ít, không ăn vặt, không có thói quen ăn vặt!”
Năm xưa, tôi học Giáo với thầy Lư
tại Đài Trung, đă từng
giữa trưa ăn một bữa
suốt năm năm, chỉ ăn một bữa. Thầy
Lư mỗi ngày ăn một bữa, thầy ăn suốt mấy chục
năm, thân thể khỏe mạnh! Lúc thầy tám
mươi tuổi, quư vị thấy thầy giống
như người năm sáu mươi tuổi, chẳng
nh́n ra tuổi thầy. Bọn học sinh chúng tôi
ước đoán thầy có thể sống đến
một trăm hai mươi hay một
trăm ba mươi tuổi, mọi
người cùng có cách nh́n ấy. Thầy mất lúc chín mươi bảy tuổi, v́ sao mất? Trúng độc v́
đồ ăn, điều này rất oan uổng! Thầy
do bị trúng độc đồ ăn mà ra đi. V́ thế,
khi thầy ngă bệnh, tôi đến thăm thầy,
thầy dặn ḍ, nhắc nhở tôi rất
nhiều lượt: “Đừng
ăn thứ ǵ ngoài tiệm, những thứ trong tiệm
chẳng sạch”. Bản thân thầy là một vị thầy
thuốc giỏi; chính v́ là một
thầy thuốc giỏi nên thầy bị hại. V́
người ta tặng thầy thức ăn ǵ, thầy có
thói quen ăn hết trước mặt người ấy
khiến cho người ta hoan hỷ. Thầy là người Sơn Đông,
thích ăn những thứ làm bằng bột ḿ. Trúng độc lần thứ nhất,
thầy biết, trong từng vắt
ḿ sợi đều có bỏ thuốc chống hư, đă
khô rồi, đại khái là
đă để quá lâu, quá hạn rồi!
Các đồng học thiếu kiến thức thông
thường, đem nấu mời thầy ăn. Thầy
ngửi mùi, biết ngay là có vấn đề, nhưng
vẫn ăn. Sau khi ăn xong, quay
về bèn uống thuốc giải, thật sự giải
được chất độc ấy. C̣n như chúng ta
không hiểu, chẳng dám ăn. Thầy ăn xong có thể
uống thuốc giải. Sau nửa năm, lại bị
một lần nữa, cũng gặp t́nh h́nh ấy,
thầy cũng ăn như vậy. Khi trở về
uống thuốc giải th́ chẳng kịp nữa,
chất độc đă khuếch tán, khuếch tán rất
nhanh; rốt cuộc là do tuổi đă cao,
chín mươi bảy tuổi rồi, thầy sơ sót
điểm này!
V́ thế, đối với phương
diện ẩm thực, thầy đặc biệt nhắc
nhở những kẻ trẻ tuổi chúng ta phải chú ư: Hễ mùi vị
biến đổi đôi chút, đừng nên ăn! Đặc biệt là những thứ như
đậu hủ, đă có mùi chua, mùi vị đă
biến đổi, chớ nên ăn! Trọn chẳng
phải hoang phí thực phẩm. Nếu lúc quư vị phát
tâm, thứ đă có mùi chua, đă
hư rồi, nhưng vẫn ăn, chẳng dám không ăn, sợ không ăn
là lăng phí, có lẽ sẽ phạm lỗi phung phí
lương thực, sai rồi! Sợ
phung phí lương thực, nếu quư
vị ăn vào sanh bệnh, thậm chí tử vong, vẫn
chấp nhận th́ sai mất rồi. Đức Phật chẳng dạy
người ta như vậy. Thuở đức Phật
tại thế, khi khất thực được thứ
ǵ, phải ăn hết ngay trong hôm ấy. Nếu ăn
không hết, bèn cho chim, thú ăn, bố thí cho
súc sanh, không thể ăn những thứ để qua
đêm. Đó là giới luật nhà Phật. V́ trong quá khứ
chẳng có tủ lạnh, không
thể ăn những thứ
để qua đêm. V́ thế, chúng
tôi nghĩ lời răn dạy của đức Phật hợp t́nh, hợp lư, hợp pháp, đối với cuộc sống
khỏe mạnh của bọn phàm phu chúng ta, đức
Phật hết sức quan tâm. Chúng ta phải nghĩ
một tăng đoàn đông như thế, hơn một
ngàn người thường theo Ngài, đó
là Thường Tùy Chúng; [ngoài ra] c̣n có những vị tạm thời
tham gia, chúng tôi phỏng đoán, tuyệt đối
chẳng thể ít hơn ba ngàn người, thường
theo hầu bên cạnh lăo nhân gia.
Điều được giảng ở
đây cũng là một pháp môn hết sức trọng
yếu, chúng ta hăy vận dụng linh hoạt trong cuộc
sống. Quán Không hết sức trọng
yếu, hăy thường nghĩ kinh Kim Cang đă dạy: “Phàm
những ǵ có tướng
đều là hư vọng”,
hoặc nghĩ kinh Đại Bát Nhă đă nói: “Hết thảy
các pháp vô sở
hữu, rốt ráo không, bất khả đắc”. Trong lúc lợi danh bày ra
trước mặt mà chúng ta động tâm, hăy niệm những
câu ấy nhiều lượt th́ ư niệm vừa nghĩ
ấy, tức là ư niệm vọng tưởng sẽ
ngưng dứt. Có những kẻ nghiệp chướng nặng nề, khi danh
lợi hiện tiền, bèn quên bẵng Phật, chẳng
nghĩ tới nữa. V́ thế,
phải có ḷng cảnh giác cao độ, hễ cảnh
giới hiện tiền, cổ nhân nói: “Chẳng sợ niệm khởi,
chỉ sợ giác chậm”, phải giác ngộ nhanh chóng, ta có thể
ngưng dứt, chẳng tạo nghiệp nữa!
Từ Không môn, người ấy chấp
trước Không, “ư thị nhân bất vi môn, thông đồ
cánh tắc” (do vậy, môn ấy chẳng
thích hợp cho người đó, đường thông hóa
nghẽn), tức là đọa
trong “hầm vô vi”. Đối với người ấy mà nói th́ Không chẳng phải là
môn để kẻ ấy ngộ nhập, v́ kẻ ấy
chấp trước Không. Chấp trước Không, bèn
gặp ngay chướng ngại, “tắc” (塞) là chướng ngại. “Nhược trừ Không tướng” (nếu trừ tướng Không),
người ấy có thể buông tướng Không xuống, biết tướng Không cũng là bất khả
đắc, tướng Không cũng
là duyên sanh. “Thị
thời tùng Vô Tướng môn nhập” (khi ấy bèn theo cửa Vô Tướng
để vào), có thể được! Chỉ cần
chẳng chấp trước Không
là được, có thể chứng quả A La Hán, hoặc có thể chứng quả Bích Chi Phật. “Nhược ư Vô Tướng
tướng” (nếu đối với tướng Vô
Tướng), người ấy biết tướng Vô
Tướng, nhưng chấp trước, chấp ǵ vậy? Chấp vào tướng Vô
Tướng th́ cũng không
được; chỉ cần có chấp trước tức là sai lầm mất
rồi. “Tâm trước sanh hư luận” (tâm chấp trước, sanh ra hư luận), chấp vào tướng
Vô Tướng có thể sanh ra hư luận. Hư luận là nói giỡn chơi, chẳng phải là
sự thật. “Thị
thời trừ Vô Tướng tướng” (khi ấy,
trừ bỏ tướng Vô Tướng), cũng có thể buông tướng Vô Tướng xuống, tâm thanh tịnh hiện tiền, đó gọi là “Vô Tác môn”. Đấy là nói ba
loại người có căn tánh khác nhau, đều có
thể nhập ba môn giải thoát trong Tiểu Thừa.
Tiếp đó, cụ Hoàng Niệm Tổ
giải thích: “Cái vị Không, Vô Tướng, Vô Nguyện” (ấy là nói Không, Vô Tướng, Vô
Nguyện), sánh ví những môn ấy như cửa nẻo. “Do thử pháp môn, khế nhập chư
pháp Thật
Tướng chi Niết Bàn thành” (do pháp môn này mà khế nhập thành
Niết Bàn Thật Tướng của các pháp), Thật Tướng
của các pháp là Pháp Tánh, “khế nhập” là minh tâm kiến tánh, tỷ dụ minh tâm kiến tánh giống như thành Niết
Bàn. “Nhược
nhân tùng Không môn nhập, diệc bất kiến Không
tướng” (nếu người theo cửa Không
để vào, cũng chẳng thấy tướng Không), trực nhập như vậy, từ Không môn
nhập mà chẳng chấp trước Không, đó mới là thật
sự chứng nhập. Nếu có Không để đắc, th́ cái
“đắc Không” ấy là chấp tướng! “Nhược đắc Không tướng” (nếu đắc tướng Không),
tức là quư vị chẳng thể nhập! Cái Không ấy
là chấp trước; do đă chấp vào Không, quư vị chẳng
thể chứng nhập. “Nhược
trừ Không tướng” (nếu
trừ tướng Không), đó là “tùng Vô Tướng môn nhập” (từ Vô Tướng môn để vào),
Vô Tướng vẫn là Không
môn. Thay đổi danh từ, v́
trước đó, quư vị đă chấp vào tướng
Không, nay đă giác ngộ, tướng Không cũng buông
xuống, nên gọi là “tùng Vô
Tướng môn nhập”. “Thảng
trước ư Vô Tướng chi
tướng, tức Vô Tướng tướng” (nếu chấp vào tướng của
Vô Tướng th́ đó chính là tướng Vô Tướng), quư vị chấp
vào Vô Tướng, chấp vào tướng Vô Tướng,
điều này rất vi tế, như vậy là quư vị đă vướng
vào tướng của Vô Tướng, cũng chẳng thể nhập, cũng nẩy sanh chướng ngại.
Ắt cũng phải diệt trừ tướng Vô Tướng, đấy chính là “tùng Vô Tác môn trực nhập thử thành” (từ cửa Vô Tác, vào
thẳng thành này). Vô Tác cũng là Vô
Nguyện th́ mới có thể
trực nhập Thật Tướng của các pháp. “Cố viết: Nhập Không, Vô
Tướng, Vô Nguyện pháp môn” (nên nói là “nhập Không,
Vô Tướng, Vô Nguyện pháp môn”). Đại Thừa
lẫn Tiểu Thừa đều có ba môn giải thoát ấy, tức là ba thứ
đường lối để giải thoát, chỉ là nghĩa lư cạn
hay sâu khác nhau! Hoặc là từ Không để nhập, hoặc từ Vô Tướng để nhập, hoặc từ
Vô Nguyện để nhập, đều có thể thành tựu.
Thông thường, trong học tập kinh giáo, chúng tôi nói đơn giản hơn mà
cũng rất rơ ràng, chẳng đi ṿng vèo
như vậy. Đức Phật dạy chúng ta,
người thượng thượng căn thiện căn sâu dầy, có thể đồng thời buông khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp trước xuống, trong Phật pháp gọi điều này là “đốn xả”. Xả là
buông xuống, đốn tu, đốn ngộ, đốn
chứng. Ư niệm
vừa chuyển,
phàm phu bèn thành Phật. Thuở ấy, Thích Ca Mâu Ni Phật đă v́ chúng ta biểu diễn
cảnh giới này. Vào đời Đường, Lục Tổ Huệ Năng
đại sư của
Thiền Tông đă v́ chúng
ta biểu diễn, cũng là chuyện này, tuyệt đối chẳng phải là kẻ b́nh phàm có thể
làm được! Bản thân kẻ
b́nh phàm hiểu rất rơ, phiền năo, tập khí nặng
nề dường ấy, muốn
đoạn mà chẳng đoạn
được, v́ sao người ta ngay lập tức
đoạn được? Hễ đoạn, bèn vĩnh viễn đoạn trừ. Do làm không được, bèn biết chúng ta chẳng phải là
bậc thượng thượng căn. Không chỉ là chúng
ta chẳng có phần nơi thượng
thượng căn, mà đối
với thượng căn, chúng ta cũng
chẳng sánh bằng. Nói thực tại,
chúng ta là kẻ trung hạ căn,
phải hiểu rơ điều này. Kẻ trung hạ căn th́ phải buông xuống từng chút
một. Quư vị không buông
xuống, sẽ chẳng vào được cửa, mà
cũng chẳng thể quay đầu, nhất định phải buông xuống!
Buông xuống, phải từ ngoài vào trong; trước hết, hăy
buông xuống từ bên ngoài. Khi mê là từ trong ra ngoài, khi
buông xuống th́ phải từ ngoài vào trong. Tầng ngoài
cùng nhất là lục đạo. Lục đạo h́nh thành như thế nào? Vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước, những thứ ấy
h́nh thành lục đạo luân hồi. Lục đạo do
chính ḿnh tạo, vốn chẳng có lục
đạo. Lục đạo chẳng do Phật tạo, mà
cũng chẳng do Thượng Đế tạo, cũng
chẳng do vua Diêm La tạo, mà do tự tánh biến
hiện, do khởi tâm động niệm, phân biệt,
chấp trước, kinh Hoa Nghiêm dạy như vậy.
Như thế nào th́ mới có thể thoát ly lục
đạo? Buông chấp trước xuống bèn thoát ly,
cũng có nghĩa là trong cuộc sống hằng ngày, đối với hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian, chúng
ta chớ nên chấp trước. Chúng ta rốt cuộc là căn tánh ǵ? Căn tánh trung hạ chúng ta vẫn chẳng làm được! Nói thật thà, chúng ta là căn tánh hạ hạ, nghiệp chướng quá nặng. Phải học buông xuống từng chút
một, phải buông xuống mỗi
ngày, phải buông xuống mỗi tháng,
phải buông xuống mỗi năm. Quư
vị buông xuống càng nhiều, tín tâm sẽ dần dần sanh khởi, v́ sao? Tâm thanh tịnh, phiền năo ít đi, trí
huệ hiện tiền. Phiền năo ít, trí huệ sanh, khá lắm! Quư
vị sẽ có tín tâm đối với
sự buông xuống,
cuộc sống ngày càng tự tại hơn.
Nói cụ thể, buông xuống là ǵ? Buông xuống là bố thí, bố thí là buông xuống. Chúng ta tham
luyến tài sản,
bỏ chẳng được để buông xuống, phải học! Học
buông xuống! Đối với vật ngoài thân, phàm những ǵ
có tướng đều là hư vọng. Buông ra, [bèn lo lắng, bản thân ta] chẳng có ǵ nữa th́ sẽ ra sao? Đừng lo lắng! Bởi lẽ, ở đây,
nhân quả sẽ
giúp đỡ chúng ta.
Trong mạng ta đă có, càng buông ra,
sẽ càng có nhiều. Chớ nên nói “càng buông ra, sẽ không
có nữa”, chẳng thể nào! Đó là vi phạm nguyên tắc nhân quả. Khẳng định là càng buông ra, sẽ càng nhiều, càng
nhiều, càng buông ra, quyết định chớ
nên tích lũy. Trong
kinh Đại Thừa lẫn Tiểu Thừa,
đức Phật đă dạy: “Tích tài táng đạo” (tích lũy tiền của, đạo
bị chôn vùi). V́ sao người tu
hành không thể thành tựu? Lúc
chẳng có tiền tài, buông xuống c̣n khá dễ dàng, dù sao
cũng đâu có ǵ! Khi càng có tiền, càng chẳng nỡ bố thí;
v́ thế, kẻ ấy thoái chuyển! Tài sản thật sự hại
người, hại quư
vị chẳng thể khai ngộ,
hại quư vị chẳng thể chứng quả, thậm chí hại quư vị chẳng thể văng sanh, quư vị nói xem: Có phiền phức hay không?
Phải buông tài xuống, pháp cũng phải buông xuống. Quư vị thấy ở đây nói đến tướng Không, đều là pháp. Tướng Vô Tướng cũng
là pháp. Nếu quư vị chẳng buông
xuống, sẽ nẩy
sanh chướng ngại, chẳng có cách nào đắc quả Nhị Thừa. Nó là pháp, pháp cũng phải buông xuống. Buông pháp xuống, đắc
thông minh, trí huệ. V́ thế, Phật, Tổ dạy chúng
ta: “Thâm nhập một môn, huân tu lâu dài”. Ta chỉ nắm lấy một môn, toàn bộ
những môn khác đều buông xuống. Buông xuống là ǵ?
Ta đi đến cùng một môn này th́ toàn bộ đều đạt được,
nguyên lai là chuyện như thế đó. Nếu không buông
xuống th́ sao? Khi không buông xuống, từ đầu
đến cuối, quư vị chẳng đạt đến đích, thứ ǵ
quư vị cũng chẳng đạt được. Quư vị thấy đó, buông của cải xuống bèn được
của cải, buông hết thảy các
pháp xuống bèn được thông minh, trí huệ. C̣n phải có tâm từ bi giống như Phật, Bồ Tát, tâm
từ bi sẵn có trong tự tánh, thấy người khác gặp khổ nạn, nhất định
phải giúp đỡ. Đó là ǵ? Đó là tu vô úy bố
thí, khiến cho hết thảy khổ nạn chúng sanh ĺa khỏi sợ hăi. V́ vậy, các đồng học phát tâm, muốn lập cô nhi viện hay mở
viện dưỡng lăo, đó là chuyện
tốt, đó là ǵ? Đó là vô úy bố thí, quả báo là khỏe mạnh,
sống lâu. Quư vị có thể chăm sóc kẻ khác đang bệnh khổ, có thể giúp
đỡ người khác giác ngộ.
Chẳng giác ngộ là chuyện khổ sở, là cội nguồn của hết
thảy các nỗi khổ. Giúp đỡ
người khác giác ngộ là trừ dẹp cội
nguồn khổ, trừ dẹp cội rễ của
khổ và lạc, chuyện này thuộc về đại vô úy bố thí, quả báo thù
thắng chẳng thể nghĩ bàn!
Những Lư mà đức Phật
đă nói trong kinh giáo là chân lư, Sự
là thật sự, thực tại, chẳng hư giả mảy may! Chúng ta học tập, tôi đă trải qua năm mươi chín
năm, chứng thực chẳng
giả tí nào! Xă hội hiện thời động loạn, tai
nạn trên địa cầu nhiều ngần ấy, chúng ta thấy rơ
ràng. Thấy ǵ? Biết do nhân ǵ, do nguyên nhân ǵ tạo thành nông nỗi ấy, cũng
hiểu rơ nên dùng phương pháp ǵ để đối
đăi. Giải quyết những tai nạn trên địa cầu
chẳng khó, ngay cả các tinh
cầu vận hành trong vũ trụ, quỹ
đạo bị sai lệch, chúng
ta cũng đều có cách khiến cho chúng khôi phục b́nh
thường, những tai nạn nhỏ nhặt trên địa cầu
thấm vào đâu! Quư vị nhất định phải
biết: Tất cả hết
thảy tai nạn đều do tâm
hạnh chẳng lành cảm vời! Nếu chuyển biến tâm
thái, tai nạn sẽ lập tức tiêu trừ. Ở
chỗ này, nhất định phải trước hết
là hiểu rơ ràng, minh bạch lư
luận và chân tướng sự thật. V́ quư vị chẳng hiểu rơ, tín tâm chẳng thể sanh khởi! Tín tâm chẳng sanh khởi, ư niệm
của quư vị chuyển biến, dẫu có chuyển,
nhưng chẳng kiên cố, vẫn c̣n có hoài nghi. Nỗi hoài nghi ấy phá hoại thiện niệm của quư
vị, dẫu chẳng thể
phá hoại hoàn toàn, nhưng đă giảm bớt năng
lượng ấy trên một mức độ lớn. Chỉ có tín tâm kiên
định, chẳng có mảy may hoài nghi th́ sức mạnh ấy sẽ
khiến cho con người hết sức kinh ngạc!
Do vậy, những báo cáo nghiên cứu
của các nhà khoa học cận đại có ích rất lớn
đối với sự tu học của chúng ta. Những Lư và Sự
giống như thế này được họ nói rất rơ ràng, chúng ta vừa nh́n vào liền
hiểu rơ, kinh Phật vốn đă nói tới [những
chuyện ấy] từ ba ngàn
năm trước, nhưng chúng ta do dự,
chẳng quyết đoán, chẳng dám sử dụng. Khoa học hiện
thời vừa chứng minh, chẳng c̣n bàn căi
chi nữa, giúp chúng ta đoạn nghi, sanh tín. Đối
với sự thành tựu trong một đời này của
chúng ta, đặc biệt là thành
tựu trong niệm Phật văng sanh, tín tâm vẹn mười. Niệm niệm chẳng có ư niệm nào
khác, chỉ có thế giới Cực Lạc là nhà
của chúng ta, A Di Đà Phật là vị thầy, là gia
trưởng của chúng ta. Văng
sanh thế giới Cực
Lạc là trở lại quê nhà, đúng vậy,
chẳng giả! Há lẽ nào chẳng có phần? Nói chung, quê nhà
luôn có phần của chúng ta, vấn đề là quư vị
có nhận biết hay không? Người Hoa nói: “Lang
thang rất lâu ở bên ngoài, nay đă nhận biết
tổ tiên, trở về nguồn cội”. Văng sanh
thế giới Cực Lạc là “nhận biết tổ tiên, trở về
với cội nguồn”, đúng thế, chẳng giả!
Trước kia, đúng là đă mê
mất, nay quư vị đă có tín tâm kiên định, lẽ
nào chẳng thành tựu? Chúng
ta học đoạn Tam Không tam-muội này tới đây.
Chúng ta lại xem
đoạn tiếp theo: “Thiện lập
phương tiện, hiển thị tam thừa” (khéo lập phương tiện, bày rơ
tam thừa). Đây là lợi tha, phần trước là
tự lợi, [trong phần này], chính
ḿnh đă thành tựu, bèn muốn giúp đỡ
người khác. Giúp đỡ người khác th́ phải khéo lập phương
tiện. “Hiển thị tam
thừa” th́ mới có thể khế cơ; căn tánh như thế nào th́ chúng ta và Bồ Tát giống hệt, phải dùng phương pháp ǵ để đối
trị. “Phương giả,
phương pháp” [nghĩa là] “phương” là phương pháp. “Tiện giả, tiện dụng”, [nghĩa là] Tiện là thuận
tiện, mang ư nghĩa ấy. Chúng ta nói
phương pháp tiện lợi là phương pháp thích hợp nhất, là phương pháp hay khéo nhất, là phương pháp tốt
nhất, có ư nghĩa ấy. Phương pháp tốt nhất, hay khéo nhất chẳng có nhất định, do mỗi người mà khác nhau, do mỗi thời mà khác biệt, do mỗi sự mà không giống
nhau. Đó là trí huệ, trong Phật pháp dùng một danh từ khác là “phương tiện thiện xảo”, phải thêm vào chữ “thiện xảo”. Bởi lẽ, có trí huệ th́
mới biết dùng.
“Pháp Hoa Văn Cú viết: Phương giả, pháp dă. Tiện giả, dụng dă” (Sách Pháp Hoa Văn Cú nói: “Phương là
cách thức, Tiện là sử dụng”). Đây là cách
giải thích của cổ đức. Trong sách Pháp Hoa
Huyền Tán có nói: “Thi vi khả tắc viết Phương, thiện đậu cơ nghi
viết Tiện” (Thực
hiện đáng làm khuôn mẫu th́ gọi là Phương.
Khéo phù hợp cơ nghi là Tiện).
“Thi vi” (施為) là “thiết thi, tác vi” (設施作為: lập bày ra cách thức để
thực hiện), có thể nêu
gương tốt cho đại chúng noi theo th́ gọi là Phương. Chỗ này nói nghiêm ngặt hơn trong phần
trước đôi chút; phần
trước là nghĩa rộng, ở đây nói theo nghĩa
hẹp. Hết thảy các hành
vi, hoạt động của chư Phật, Bồ Tát đều có thể nêu
gương tốt cho chúng sanh, điều đó gọi là
Phương trong Phật môn. “Thiện
đậu cơ nghi” (善逗機宜: Khéo phù hợp
cơ nghi), Cơ (機)
là [căn cơ của] hết thảy chúng sanh. Quư vị rất xảo diệu, khiến cho hết thảy chúng sanh dùng phương pháp ấy đều
hết sức hoan hỷ, đều nghiêm túc học
tập, chẳng cảm thấy khó khăn, đó gọi
là “tiện lợi”. Trong Pháp
Hoa Nghĩa Sớ có nói: “Phương
tiện thị thiện xảo chi danh” (Phương
tiện là tên gọi khác của thiện xảo). Do
vậy, kinh Phật thường gộp chung thiện
xảo và phương tiện, gọi là “thiện xảo phương tiện”. “Thiện xảo giả, trí chi dụng dă” (thiện xảo là tác dụng của
trí). Đây là trí huệ, trí ấy là Hậu Đắc Trí, Quyền
Trí, quyền nghi, quyền xảo!
Kinh Đại Tập nói: “Năng
điều chúng sanh, tất linh thú
hướng A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, thị danh Phương Tiện” (có
thể điều phục chúng sanh,
khiến cho họ đều hướng đến Vô
Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, th́ gọi là Phương Tiện). Kinh Đại Tập nói đến
phương tiện thiện xảo của Bồ Tát. Bồ Tát có thể giúp đỡ hết thảy chúng sanh. “Thú
hướng” (趣向) là theo một
phương hướng, theo một con đường, tức là con đường thành Phật. A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề là
con đường thành Phật, hoàn toàn là dịch âm tiếng Phạn,
dịch sang tiếng Hán, dịch sang văn tự Trung
Quốc, th́ A dịch là Vô, Nậu Đa La dịch là Thượng, [A Nậu Đa La là] Vô Thượng, Tam dịch là Chánh, Miệu dịch là
Đẳng, sau đó lại có chữ Tam cũng là Chánh,
Bồ Đề là Giác, cho nên cả câu này nói gộp lại sẽ
là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Đây là ba giai đoạn trên con đường Bồ Đề của người học Phật. Giai đoạn thứ nhất là Tam Bồ Đề,
tức Chánh Giác, A La Hán chứng đắc. A La Hán thành Chánh
Giác là thành Tam
Bồ Đề. Bồ Tát là Chánh Đẳng Chánh
Giác, Bồ Tát chứng đắc Tam
Miệu Tam Bồ Đề.
Đối với Phật, lại thêm chữ Vô Thượng, A Nậu Đa La là Vô Thượng. Do vậy, đây là con đường thành Phật.
Theo kinh Hoa Nghiêm, Tam Bồ Đề là địa vị
Thất Tín. Trong mười
địa vị Tín của Bồ
Tát, Thất Tín là Tam Bồ Đề. Nói theo đẳng
cấp đoạn phiền năo và chứng Bồ Đề
th́ Thất Tín Bồ Tát và Tiểu Thừa A La Hán b́nh
đẳng, nhưng trí huệ [của Thất Tín
Bồ Tát] vượt trỗi Tiểu
Thừa, trí huệ Tiểu Thừa chẳng sánh bằng các Ngài. Chánh Đẳng Chánh Giác là Phật hoặc Bồ Tát trong mười pháp giới,
sở chứng của các Ngài là Chánh
Đẳng Chánh Giác. Nếu thêm Vô Thượng vào, bèn vượt trỗi mười pháp giới. Trong mười pháp giới có Chánh Đẳng Chánh Giác, nhưng không có Vô Thượng. Vô Thượng th́ phải
đoạn hết vô minh, kinh Hoa Nghiêm nói đến vọng tưởng th́ [vọng tưởng] cũng là “khởi
tâm động niệm” như chúng ta thường nói. Sáu căn
đối trước cảnh giới lục trần mà
chẳng khởi tâm, không động niệm, bèn gọi là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Phật đă chứng
đắc [cảnh giới ấy], Ngài vượt thoát mười pháp giới, sanh vào cơi Thật Báo Trang Nghiêm. Người tu hành thông
thường, được gọi là “thông đồ” (đi theo đường lối
chung), quá nửa sanh vào thế giới Hoa Tạng, c̣n người niệm Phật sanh về thế
giới Cực Lạc. Cực Lạc và Hoa Tạng, nói thật ra là cùng một chuyện. Hoa Tạng
giống như một ṭa thành lớn, thế giới
Cực Lạc như một con phố trong ṭa thành lớn
ấy, nói như vậy cho mọi người dễ hiểu, [thế
giới Cực Lạc] là một con
phố thù thắng nhất. Khi tôi giảng
ở Tân Gia Ba, thường dùng Tân Gia Ba làm tỷ dụ.
Thế giới Hoa Tạng giống như Tân Gia Ba, thế giới Cực Lạc giống
như con đường Ô Tiết (Orchard Road), mọi người
rất dễ hiểu. V́
vậy, sanh vào Tịnh Độ là đă sanh trong Hoa
Tạng, nhưng sanh trong Hoa Tạng,
chưa chắc sanh về Tịnh Độ! Phải
hiểu điều này, quư vị mới biết Tịnh Độ thù thắng.
“Hựu Hội Sớ viết: Duy Ma Cật kinh
vân: ‘Trí Độ Bồ Tát mẫu,
phương tiện dĩ vi phụ’, đạt Không, Vô
Tướng thị đại trí, tùy nghi thiết thi danh Phương Tiện” (Lại nữa, sách Hội Sớ nói:
“Kinh Duy Ma Cật bảo ‘Trí
Độ là mẹ của Bồ Tát, phương tiện
là cha’, thấu đạt Không, Vô Tướng là đại trí, tùy nghi lập bày, vận dụng, bèn gọi là Phương Tiện”). Trong kinh Duy Ma có hai câu như vậy. Trí Độ (Bát Nhă Ba La Mật) là mẹ của Bồ
Tát v́ có thể sanh ra chư Phật, Phật chẳng ĺa
khỏi trí huệ. V́ sao? Trí huệ th́ mới có thể
đoạn phiền năo. Không có trí huệ, làm
sao quư vị có thể buông vọng tưởng, phân biệt, chấp trước xuống? Buông vọng tưởng, phân biệt, chấp trước xuống là đại trí huệ. Do thật sự thấu
suốt, nên mới có thể triệt để buông xuống; chẳng có trí huệ,
sẽ không thể bỏ xuống. Không có trí huệ là quư vị c̣n có phiền
năo, c̣n có t́nh chấp, chẳng buông xuống
được! Quư vị c̣n có sợ hăi, c̣n có hoài nghi, những thứ ấy đều là tập khí phiền năo. Trí huệ chân chánh hiện tiền, [những phiền năo, tập
khí] bị quét sạch sành sanh, chẳng có chướng ngại nữa.
“Phương tiện dĩ vi phụ” là phương tiện thiện xảo
trong tu hành pháp môn.
Tiếp đó, giải thích cho chúng ta
biết: “Đạt Không, Vô
Tướng thị đại trí”, “đạt” (達) là thông đạt, [nghĩa là] quư vị thông đạt, hiểu rơ, vạn pháp đều là Không, tướng tức là phi
tướng, đó là “đạt vô tướng”.
Tướng tức là vô tướng, bản
thể của nó chính là Không, trọn chẳng thể
được, đó là trí huệ Bát Nhă trong tự tánh, nên gọi là “đại trí”, trí huệ ấy sẵn có trong tự
tánh.
V́ thế, Phật pháp được
truyền đến Trung Quốc từ thời Hán Minh
Đế, ảnh hưởng rất lớn đến
văn hóa bản địa của Trung Quốc. Tiến sĩ Thang Ân
Tỷ (Arnold J. Toynbee) nói chẳng sai,
ông ta nói người Trung Quốc tâm lượng to lớn, có thể dung
nạp văn hóa của dị tộc. Ấn Độ là
ngoại quốc, chẳng phải là Trung Quốc, là dị tộc, văn
hóa dị tộc truyền đến
Trung Quốc. Ông ta hết sức tán
thán, có thể dung nạp văn hóa của dị tộc! Văn hóa Phật giáo đă nâng cao văn hóa truyền thống
của Trung Hoa trên một mức độ lớn, đúng
vậy, chẳng giả tí nào! Nho và Đạo vận
dụng những nguyên tắc và nguyên lư trong Phật pháp rất nhiều. Ba thứ văn hóa Nho, Thích, Đạo dung
hợp thành một Thể, đó là văn hóa truyền thống của Trung Hoa, một Thể!
Do vậy, người Hoa cầu điều ǵ? Cầu trí huệ. Nho cũng là cầu trí huệ, Đạo cũng là
cầu trí huệ. Ư niệm “cầu
trí huệ” học
từ Phật giáo. Chẳng hề cầu tri
thức, mà cầu trí huệ. Cầu như thế nào? Từ Giới, Định,
Huệ. Do vậy, phương
pháp Giới, Định, Huệ được Nho học
theo, mà Đạo cũng học theo. “Nhân Giới đắc Định, nhân Định khai Huệ”, “thâm nhập một môn, huân tu lâu
dài” là phương pháp để cầu trí huệ, chẳng phải là cầu tri thức. Tri thức là học rộng, nghe nhiều. Trí huệ là thâm nhập một môn, huân tu lâu dài,
khác nhau! Tri thức có phải cầu hay không? Tri thức phải cầu, nhưng đặt nó vào cuối cùng; sau khi khai
ngộ mới cầu tri thức. Quư vị thấy
thứ tự trong Phật pháp [được diễn tả bằng] Tứ Hoằng Thệ Nguyện. Đầu tiên bảo quư vị phát nguyện, “chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”, điều này là
nguyện. Ba điều sau th́ sao? Nhằm thành tựu điều thứ nhất. Điều thứ hai là “phiền năo vô tận thệ nguyện
đoạn”. Đoạn phiền năo như thế nào? Tŕ giới, tu định, khai trí huệ,
phiền năo chẳng c̣n nữa. Do đó, “phiền năo vô tận thệ nguyện
đoạn” phải dùng Giới, Định,
Huệ. Trí huệ đă khai, chiếu kiến Ngũ Uẩn đều không, thấu đạt chúng sanh tướng. Sau khi trí huệ đă khai, lại học pháp môn, “pháp môn vô lượng thệ nguyện
học, Phật
đạo vô thượng thệ nguyện thành”, đó là chuyện sau khi
trí huệ đă khai. Trí huệ chưa khai, đối
với hai chuyện sau, dẫu
quư vị nghĩ
cách nào cũng chẳng đạt được! Do
vậy, hiện thời, rất nhiều người học Phật chẳng thể thành tựu là do
nguyên nhân nào? Quên bẵng hai chuyện trước,
bắt đầu từ chỗ nào? Bắt đầu
từ “pháp môn vô
lượng thệ nguyện học”, học rộng, nghe nhiều. Chẳng
có cơ sở phía trước, giống như xây một ṭa cao
ốc bốn tầng, nhưng chẳng có
tầng thứ nhất và tầng thứ hai, mong xây tầng thứ ba,
rốt cuộc xây cả đời
cũng xôi hỏng bỏng không, chẳng thể thành tựu, đạo lư ở chỗ này! Đây là chỗ Nho và Đạo đều phải học theo nhà
Phật.
Vâng giữ quy củ là
tŕ giới, quyết định chẳng thể vượt cấp
được! Quư vị thấy giáo
học của Trung Quốc xưa kia, học từ chỗ
nào? Học từ Đệ Tử Quy. Đệ Tử Quy chẳng phải là bảo trẻ nhỏ
đọc, mà cũng chẳng bảo nó nói, cũng
chẳng phải là giảng cho nó nghe. Đệ Tử Quy là căn bản làm
người, cha mẹ thực
hiện cho trẻ nhỏ thấy. Trẻ thơ vừa
sanh ra, mở mắt ra, nó có thể thấy, đôi tai bé
bỏng của nó có thể nghe, nó đă học tập, bắt
chước. Quư vị chớ nên xem thường nó, [tưởng lầm]
nó vô tri, điều ǵ cũng đều không
hiểu! Thật ra, nó hiểu nhiều hơn quư vị
[nghĩ], là linh quang thật sự, tai nghe, mắt thấy,
nó học toàn bộ. Tuy nó chẳng thể nói, nhưng
thứ ǵ cũng đều hiểu. Do vậy, cha mẹ,
người lớn ở trước mặt trẻ
thơ phải rất chú tâm cẩn thận, khiến cho nó thấy, nghe, tiếp xúc, toàn là những điều chánh đáng. Cũng là như chúng tôi thường nói: Phải
khiến cho nó thấy hiếu,
đễ, trung, tín, thấy lễ,
nghĩa, liêm, sỉ, thấy nhân ái, ḥa
b́nh, nghe cũng nghe những chuyện
ấy, tiếp xúc cũng là tiếp xúc những chuyện
ấy, đó là “dưỡng
chánh”, tức là “đồng
mông dưỡng chánh” (bồi
dưỡng những điều chánh đáng cho lứa
tuổi vỡ ḷng), là căn cội của sự dưỡng chánh, [thời gian vun bồi
là] ba năm. Ba năm là
một ngàn ngày, trẻ thơ chẳng có
vọng niệm, chẳng có tạp niệm, căn cơ được vun
bồi rất sâu, nên ngạn ngữ mới có câu: “Tam tuế khán bát thập”. Một ngàn ngày vun bồi căn
cội, trong tương lai, bất luận tiếp xúc
nghịch cảnh nào, kẻ ấy cũng chẳng thể
biến thành xấu, mà có
năng
lực phân biệt đúng, sai, tà, chánh, thiện, ác. Nền giáo dục như thế,
thưa cùng quư vị, chỉ riêng Trung Quốc là có, nên Trung Quốc
đời đời xuất hiện hiền nhân, xuất
hiện thánh nhân, đạo lư ở chỗ
này!
Trong thời cổ, lịch sử đă ghi
chép “Châu gia tam thái”
(ba bà Thái của nhà Châu) đă làm rất
thành công. Bà nội của Châu Văn Vương là Thái
Khương, là mẹ của Vương Quư, Vương
Quư là cha của Văn Vương. Mẹ của nhà vua là
Thái Nhậm, phi tử của vua là Thái Tự, sanh ra Vũ
Vương và Châu Công, đều là
những bậc thánh nhân mà Khổng Tử bội phục
nhất. Chẳng phải là từ lúc trẻ
nhỏ sanh ra, mà ngay trong khi mang thai, chính ḿnh đă bắt
đầu dùng những điều chánh đáng để
ảnh hưởng thai nhi. Bắt đầu [giáo dưỡng] từ lúc có mang gọi là “thai giáo”, thật sự vun
bồi cội rễ sâu chắc. Phương pháp giáo
học như thế chính là gia giáo, măi
cho đến những năm cuối đời Măn Thanh, các gia tộc đông
đảo vẫn dùng phương pháp này. Xưa kia,
trường học ít ỏi, con gái ít có cơ hội học hành, nhưng [nữ nhân] đều
có thể dạy dỗ con thơ, đều biết Ngũ Luân,
Ngũ Thường,
Tứ Duy, Bát Đức,
đều hiểu, chẳng có một ai không biết.
Lại c̣n có thể biểu hiện [những
giềng mối ấy] trong
cuộc sống hằng ngày, do các bà đă làm
được, nên rất biết cách dạy dỗ!
Trẻ nhỏ sáu bảy tuổi, đi
học, thầy dạy dỗ. Thầy thật sự gánh
trách nhiệm, những ǵ thầy
đă dạy, thầy đều làm được; không
làm được sẽ chẳng thể dạy trẻ
nhỏ, thầy nêu gương cho trẻ thơ. Thầy có đức hạnh, có tâm yêu thương, có phương pháp
vận dụng phương tiện
thiện xảo để khuyên nhủ, hướng
dẫn bọn trẻ. Gia trưởng mời
thầy, bèn đi các nơi nghe
ngóng. Thật sự là một vị thầy tốt, bèn
lễ thỉnh. Thỉnh đến, trước hết làm lễ bái sư, gia trưởng phải lạy thầy,
phải hành đại lễ với thầy, tức là ba lần quỳ, chín lần khấu đầu. Thầy
tiếp nhận gia trưởng
đối đăi bằng đại lễ như vậy,
nếu không nghiêm túc dạy trẻ cho tốt đẹp, há chẳng có lỗi đối với gia
trưởng? Tận tâm tận lực dạy dỗ, khác với trường học
hiện thời. Học tṛ thấy gia trưởng, cha
mẹ, ông bà của chính ḿnh cũng ba lần
quỳ, chín lần khấu đầu
đối với thầy, há học tṛ c̣n có thể
chẳng nghe lời thầy ư? C̣n
có thể không tôn trọng thầy ư? Chẳng thể nào!
Người trên làm, kẻ dưới bắt chước
theo! Quư vị thấy
cha mẹ rất
tôn trọng thầy, trong tâm mục của tṛ, thầy
chẳng khác cha mẹ, b́nh đẳng! Hiếu thuận cha mẹ th́
cũng phải hiếu thuận thầy. Do vậy, nếu quư vị nh́n vào cổ
lễ Trung Quốc, sẽ hiểu con người xưa
kia khác hẳn. Mấy ngàn năm qua, là nước lễ
nghĩa, là sự thật, chẳng giả! Người ngoại
quốc nghiên cứu lịch sử Trung Quốc, không
ai chẳng bội phục Trung
Quốc. Mấy ngàn năm qua, vĩnh viễn duy tŕ sự thống nhất to lớn, điều
này được người ta tôn kính nhất. Quư vị
thấy ở Âu Châu, sau khi đế quốc La Mă tiêu vong,
từ đầu đến cuối chẳng thể
thống nhất, mà đă chia vụn ra. Chỉ có người Trung Quốc thống nhất, măi đến
hiện thời vẫn thống nhất. Sự thống nhất ấy vô cùng đáng quư, nói lên
điều ǵ? Nói rơ xă hội ḥa hài,
nhân dân đoàn kết, đó là văn hóa ở
một mức độ cao.
Có đại trí th́
mới có phương tiện, tùy nghi thiết
lập, thi hành. “Nghi” (宜) là cần thiết, định ra một loạt
phương pháp nhằm thích hợp với nhu cầu trước mắt. Ngày nay, cả thế giới động loạn, nguyên nhân là ǵ? Chúng ta thường quên bẵng sự giáo dục làm
người, chẳng dạy con người làm
người, chỉ chú trọng giáo
dục kỹ năng, chỉ coi trọng
sự mưu sinh trong tương lai.
Tại Trung Quốc, kiểu cách ấy chẳng được gọi là giáo dục! V́ thế, thoạt đầu, tôi xuất
gia tại chùa Lâm Tế ở Viên Sơn, Đài Bắc.
Mới xuất gia làm tiểu ḥa thượng, trong tự
viện cũng giao phó việc cho chúng tôi làm. Công việc của tôi là
quét sân, quét dọn cửa chính. Sư huynh, sư
đệ ba người, sáng sớm mỗi ngày quét dọn
cửa chính. Cửa chính có rất nhiều cây, lá rụng
mỗi ngày nên phải quét dọn. Có
một hôm vào lúc quét dọn, tôi thấy bốn đứa sinh viên. Phía sau chùa chúng tôi có một con
đường dẫn đến công viên Viên Sơn, có
thể theo con đường ấy để vào [công
viên], không có ai canh cửa, chẳng phải mua vé vào cửa,
chứ đi cửa chính th́ phải có vé vào
cửa. Do biết có con đường tắt ấy, chúng
nó đi ngă sau. Tôi thấy bốn đứa sinh viên ấy,
vừa nói chuyện phiếm vừa tản bộ, trèo lên
núi. Tôi rất cảm thán, thốt lên: “Đáng tiếc! Những kẻ trẻ tuổi này chẳng được
giáo dục”. Họ nghe thấy lời ấy, ngay lập
tức quay lại t́m tôi, chất vấn: “Ông vừa mới nói ǵ đó?” “Tôi đă nói
rồi đó, tôi nói: Rất đáng tiếc,
các vị chẳng có giáo dục”. Họ
rất tức giận: “Bọn tôi là sinh viên năm thứ tư ngành Pháp
Luật của Đại Học Đài Loan, cớ sao ông nói chúng tôi chưa được giáo
dục?” Tôi nghe lời ấy, đáp: “Hóa ra là sinh viên đại học. Tôi đă
coi thường quư vị mất
rồi. Thôi được, tôi xin thỉnh giáo quư vị”. Tôi nói: “Giáo là ǵ? Dục là ǵ? Giáo dục là ǵ? Xin quư
vị hăy giảng cho tôi nghe ba vấn đề ấy”. Tôi vừa hỏi như thế đă
khiến bọn họ ú ớ, đúng là chẳng đáp
được. Các sinh viên thuở ấy c̣n khá lắm,
vẫn rất khiêm hư, họ thỉnh giáo ngược lại tôi, thái
độ rất khiêm tốn và cũng rất cung kính. Tôi
đem những ǵ Lễ Kư đă giải
thích, giảng cho họ nghe,
họ chưa hề học đến.
Sau đó họ hỏi tôi,
họ nói: “Vậy th́ trường đại học
của chúng tôi nay nên coi là ǵ?” Tôi đáp: “Tốt nhất là đại học nên đổi danh xưng thành viện nghiên cứu kỹ
thuật cao cấp. Danh xưng ấy rất
thích hợp với quư vị. Quư
vị không chỉ chưa học giáo dục cao
đẳng, mà giáo dục tiểu học cũng chưa học!” Họ cảm thấy rất lạ lùng, giáo dục tiểu học ư?
Tôi nói: “Quư vị có
biết ăn cơm hay không?” “Ai mà chẳng biết ăn
cơm?” “Đâu có đơn giản như vậy! Tôi bày
bốn món ăn cho quư vị, phương hướng
của bốn món ấy đuợc sắp đặt theo phương vị của Ngũ Hành,
quư vị có xếp được hay không?” [Không xếp
được tức là] chưa
biết ăn cơm, quư vị chưa học qua! Tôi nói:
“Quư vị đă học quét đất hay chưa? Ứng
đối, quét tước chính là giáo dục tiểu học, quư vị chưa
hề học, mặc quần áo lẫn ăn cơm
đều chẳng biết!” Tôi nói: “Đó gọi là
trường học, đó là giáo dục”. Như vậy là
những sinh viên ấy cũng c̣n rất khá, thuở
ấy, gần như là sáu mươi năm trước
đây, các sinh viên c̣n khá lắm, đều rất có thể chịu học hỏi. Nay th́ chúng ta có gặp cũng chẳng dám nói; nếu chọc giận họ, họ
sẽ động vơ với quư vị, chúng ta đâu có chịu
nổi. Đấy là giáo dục nẩy sanh vấn
đề, chẳng biết làm người! V́ thế, hiện thời có rất
nhiều người đi học có bằng Tiến Sĩ, nhưng chẳng t́m
được việc. Khá nhiều công ty, hăng xưởng hết
sức cần nhân tài, biết họ có khả năng, nhưng
chẳng biết làm người, nên
chẳng dám dùng họ! Đây là hiện tượng
phổ biến trong xă hội hiện thời. V́ thế,
sự giáo dục trong Đệ Tử Quy và Cảm Ứng Thiên là giáo dục làm người. Quư vị biết làm người, lại
c̣n biết làm việc, ai cũng thích, chủ nhân nào cũng
đều thích dùng quư vị!
Nay chúng ta nói “tùy
nghi thiết thi” th́ giáo dục luân lư, đạo đức, nhân quả, tôn giáo trọng yếu hơn bất cứ ǵ khác. Chúng tôi nói với
người khác, người ta nghe xong cũng gật đầu,
nhưng chẳng có ai tin tưởng, chẳng có ai dám
thực nghiệm. Trong xă hội hiện thời, muốn làm chuyện tốt th́ phải có địa
điểm làm mẫu, đó là chuyện tốt. Địa điểm làm
mẫu được thực hiện từ chỗ nào?
Thực hiện từ chính ḿnh. Chính cá nhân ta là người nêu gương. Làm
được điều này, quư vị lại
thực hiện trong gia đ́nh, biến gia đ́nh của
chính ḿnh thành một nơi gương mẫu. Hiện
thời là tiểu gia đ́nh, trong xă hội có nhiều tiểu gia đ́nh nêu
gương để cho người khác đến
thăm, quan sát sinh hoạt thường nhật của gia đ́nh
quư vị, một nhà ḥa thuận, thân ái,
một nhà hỗ trợ hợp tác, thực hiện được điều
ấy. Quư vị có công ty, bất luận công ty
lớn hay nhỏ, quư vị biến công ty thành một
tấm gương, làm gương cho tất cả các công
ty khác. Đó là ǵ? Đó là Bồ Tát. Cá nhân quư vị làm được, quư
vị thành Bồ Tát. Quư vị chăm
nom gia đ́nh tốt đẹp, đó là gia đ́nh Bồ
Tát, người nhà của quư vị đều là Bồ Tát. Quư vị hướng dẫn một công ty hay hăng xưởng tốt đẹp, công ty hay hăng xưởng ấy sẽ là công ty Bồ Tát, chẳng
bị lỗ vốn, sẽ sanh lợi. Một
người điều hành xí nghiệp ở Bắc Kinh là
cư sĩ Hồ Tiểu Lâm, sau
khi quen biết tôi, tôi đă dạy ông ta phương pháp
này, thực hiện ba cội rễ, chính ḿnh thực
hiện trước, sau đó ảnh hưởng tới
gia đ́nh, cuối cùng áp dụng vào công ty, làm rất
tự tại, làm rất thành công, đó là một tấm
gương tốt. Ở Thanh
Đảo, cũng có một xí
nghiệp gia là bà Lưu Khắc
Thành, cũng làm hết
sức thành công. Những gương
như vậy đều là điển h́nh. Quư vị đă nghe nền văn hóa giáo dục truyền thống này, hăy tự đến xem, xem
người ta làm như thế nào!
Ba nhà Nho, Thích, Đạo của Trung Quốc đều coi trọng hành chứng, không thể chỉ có tín, giải, mà sau đó chẳng có hành, chứng. Nếu như vậy th́
sẽ biến thành học thuật, biến thành
huyền học, biến thành tri thức, chẳng phải là trí huệ.
Quư vị có thể thực hiện những điều đă
học, vận dụng trong cuộc
sống, đạt được lợi ích trong cuộc sống, thân tâm khỏe mạnh,
phiền năo nhẹ bớt, trí huệ tăng trưởng. Áp
dụng vào gia đ́nh, gia đ́nh hạnh
phúc; vận dụng trong
sự nghiệp, sự nghiệp thuận lợi. Quư vị ảnh hưởng xóm giềng, làng nước, khu vực nhỏ nơi quư vị cư trụ nhất định sẽ ḥa hài,
một chốn lễ nghĩa nho nhỏ đă xuất hiện, sẽ thấy xă
hội hài ḥa. Mấy năm sau, ảnh hưởng ngày càng
lớn hơn, có thể ảnh
hưởng cả một thành
thị hay một khu vực. Đă nêu gương, đă nêu
khuôn mẫu, lại mở rộng, sẽ ảnh
hưởng toàn thể thế
giới. V́ sao? Toàn thể thế giới đều cần
thiết, nhưng họ chẳng t́m được một
nơi nào, họ đến [chỗ quư vị] để
xem xét, thật sự mong học theo. Người trên
cả thế giới đều đến chỗ quư
vị học tập, công đức to lớn! Chớ nên
coi thường, sự nghiệp Bồ Tát đấy nhé! Đó gọi là “tùy nghi
thiết thi” (thuận theo
cơ nghi mà thiết lập, thực hiện).
“Phương tiện hữu nhị
chủng” (phương
tiện có hai thứ), thứ nhất là “thâm giải Không nhi bất
thủ tướng, thọ chứng” (hiểu Không sâu xa, nhưng chẳng
giữ lấy tướng, hoặc thấy có chứng).
Đối với những nghĩa lư như “vạn pháp
đều là không”, “phàm những ǵ có tướng đều là hư vọng”, “hết thảy
các pháp vô sở hữu,
rốt ráo không, bất khả đắc” đều phải thấu hiểu sâu
xa. Do chúng ta lư giải chưa đủ sâu,
nên quư vị chưa thể thực hiện. Sau khi thấu
hiểu sâu xa, quư vị tự nhiên thực hiện được. Thực hiện là ǵ? Quư vị làm
được. Chẳng phải là quư
vị đọc kinh hay nghiên cứu kinh, mà là thực hành
kinh! Biến lư luận trong kinh giáo thành tư tưởng, biến giáo huấn trong kinh điển thành hành vi của ḿnh,
đấy mới là “khế nhập”. Hiểu Không, chẳng chấp tướng, quư vị mới chứng đắc, cái
đă chứng đắc chính là ư nghĩa chân thật do
Như Lai đă nói trong kinh, quư vị đă thấu hiểu. Hễ
quư vị chấp
tướng, sẽ chẳng hiểu, chẳng biết
nghĩa chân thật của Như
Lai. Nghĩa chân thật của Như Lai là chân lư uẩn tàng trong
tự tánh.
Thứ hai, “dĩ Thật Tướng lư thâm mạc
năng tín thọ, yếu tu phương tiện dụ
dẫn quần sanh, linh kỳ tiệm ngộ” (Do lư Thật Tướng sâu xa, chưa
thể tin nhận, nên phải dùng phương tiện
để dẫn dụ quần sanh khiến cho họ dần dần ngộ).
Điều thứ hai là giúp đỡ, độ
người khác. Điều thứ nhất là tự lợi, điều thứ hai là lợi tha. “Lợi Tha”: Lư Thật Tướng quá
sâu, trong phần trước đă nói: “Thâm giải Không, nhi bất thủ tướng” (thấu hiểu Không sâu xa, nhưng
chẳng chấp lấy tướng), người b́nh phàm
chẳng thể lư giải điều này; chính ḿnh đă
đạt được, phải giúp đỡ người khác. Giúp đỡ người khác th́
phải có phương tiện, phải có ḷng kiên nhẫn, có tâm nhẫn nại và có phương tiện. Phương tiện là ǵ? Phương tiện là chính ḿnh đă làm được th́ phải thường
nói với người nhà. Đối với công việc
th́ người nhà có công việc, trẻ nhỏ phải đi
học, khi tan sở hoặc tan học, sáng tối dùng
bữa với nhau, hoặc lúc rảnh rỗi, giảng
những đạo lư trong kinh giáo cho mọi người
nghe. Đức Phật dạy chúng ta sống như thế nào, làm lụng
ra sao, khiến cho mọi người đều hiểu rơ những giáo
huấn ấy. Họ thấy quư vị thực hiện,
thực hiện tự tại dường ấy, thật
sự hữu dụng! Hữu dụng là cuộc sống và công việc dẫu bận
bịu đến mấy, người ấy vẫn
rất thong dong, chẳng có phiền
năo, vui sướng, chẳng có ưu lự, tăng
trưởng trí huệ, có ai chẳng
vui vẻ? Học từ đâu? Học từ trong giáo
dục truyền thống! Mọi người mới
biết các thứ truyền thống là tốt đẹp. Quư vị chẳng nêu gương, quư vị giảng cho họ nghe,
họ chẳng tin! Phương pháp hữu hiệu nhất
là trong cuộc sống hằng ngày, hăy sống đơn giản, chẳng
lăng phí mảy may! Hoàn cảnh cư trụ tuy nhỏ bé,
nhưng ngăn nắp, sạch
sẽ, chớ nên quá
lớn, quá lớn th́ sao? Dọn dẹp các pḥng lăng phí
rất nhiều thời gian, phải lăng phí rất nhiều tinh lực, càng đơn giản càng hay, càng đơn giản càng vui sướng. Người khác sống trong một
căn nhà lớn, chớ nên hâm
mộ, v́ sao? Rất khổ! Sống trong một căn nhà to
là chịu tội, phải mất bao nhiêu thời gian và tinh lực
để chăm sóc căn nhà ấy, chẳng đáng! Trong nhà người khác có hoa viên, nhà ta có
vườn rau. Rau có thể ăn, luôn luôn là hữu dụng, có
liên quan đến cuộc sống của ta. Thực
hiện được th́ thân thể khỏe mạnh, vui
sướng, suốt ngày từ sáng đến tối hoan
hỷ, điều này rất khó có!
Quư vị thấy
người hiện thời, có mấy ai suốt ngày luôn
lộ vẻ tươi cười? Toàn là mặt ủ mày chau! Quư vị biết
tâm t́nh của họ có rất nhiều điều trái ư.
Họ thấy chúng ta suốt ngày từ sáng đến tối
hoan hỷ. Khi tôi sống ở Mỹ, có một hôm, hàng xóm
đến hỏi tôi: “Các vị làm ǵ? Đang làm nghề ǵ? V́ sao mỗi ngày quư vị vui
sướng dường ấy?” Họ hỏi tôi
chuyện ấy. Chúng tôi bảo họ: “Chúng tôi học Phật”. Họ không hiểu,
học Phật ư? Phật là tôn giáo, [họ nghĩ] chúng tôi học Phật
giáo. Họ hỏi: “Phật giáo là ǵ? Các vị học ǵ?” “Chúng tôi học Tịnh Độ”. “Tịnh Độ là ǵ?” Thế giới Cực Lạc! Chúng
tôi học vui sướng, học thanh tịnh, học khỏe
mạnh, sống lâu. Họ nói: “Chúng tôi
cũng muốn học những thứ ấy”.
Được! Hoan nghênh quư vị đến học. Chúng tôi có một tiểu đạo tràng,
họ đều là giáo đồ Cơ Đốc. Tôi nói: Quư
vị Chủ Nhật đi nhà thờ, Thứ Bảy
đến Phật đường, chẳng có xung
đột. Quư vị và Thượng Đế có quan
hệ cha con. Quư vị đến Phật đường
là quan hệ thầy tṛ, đến học, nghe giảng.
Họ thật sự rất vui, chẳng có xung đột!
Quư vị tín ngưỡng tôn giáo, nhưng con cái của quư
vị chẳng đều đi học hay sao? Phật giáo là trường học,
dạy quư vị vui sướng như thế nào? Tu tâm thanh tịnh ra sao?
Đạt được vui sướng như thế nào? Thân tâm khỏe mạnh
như thế nào? Dạy những chuyện ấy. Thân tâm khỏe mạnh,
bèn sống lâu! Vô Lượng Thọ. Ai nấy đều
mong sống lâu, đều muốn
khỏe mạnh, vậy th́ hăy
đến chỗ của tôi. Quư
vị thấy chúng tôi học ở đây, hằng ngày
luôn hoan hỷ, bất luận khi nào quư vị đến xem, đều
thấy vẻ mặt luôn tươi
cười. Đó là phương tiện dẫn dụ quần sanh, khiến cho họ
dần dần giác ngộ.
“Kỳ đức quảng đại, bất Nhị Thừa (tức phi Nhị Thừa) sở năng
vi, cố ngôn
thiện lập”
(đức ấy họ rộng lớn, chẳng phải
là hàng Nhị Thừa có thể làm được, nên nói là
“khéo lập”). Người Nhị Thừa
chẳng làm được, người Nhị Thừa trí huệ chưa khai, họ có
Giới và Định, nhưng trí huệ chưa khai. Bồ Tát có Giới, có Định, trí huệ cũng đă
khai, nên có phương tiện thiện xảo, cho nên có thể dẫn dụ chúng sanh, đều có thể đối xử ḥa thuận
với hết thảy chúng sanh,
quyết định chẳng phát sanh xung đột với
hết thảy chúng sanh.
Lúc tôi vừa mới đến Úc, khi ấy, thường
trở về Tân Gia Ba, giảng kinh tại Tân Gia Ba
mỗi năm vài lần. Ở Úc cũng có hội nghị tôn
giáo nhằm đoàn kết tôn giáo do chánh phủ tổ chức. Có một viên
chức địa vị không cao, giống như khoa trưởng[1]
của khoa tôn giáo, địa vị chẳng cao lắm!
Mỗi tháng, họ triệu tập
đại biểu của các tôn giáo khác nhau đến
họp, cùng họp lại nghiên cứu, thảo luận: “Tôn
giáo hỗ trợ hợp tác như thế nào?” Tôi di dân đến Úc, tham gia hội
nghị này, mỗi tháng họp hành, tôi nhất định
đến tham dự. Đối với các
tôn giáo khác nhau, chúng tôi đối đăi với nhau rất
khá. Họ thường tranh luận một vấn
đề: “Rốt cuộc Phật
giáo là ǵ?” Chúng tôi bảo họ: “Phật
giáo là giáo dục”. Thích Ca Mâu Ni Phật
suốt đời giáo học. Giống như trong một quốc gia, Phật
giáo chuyên lo giáo dục, làm công tác giáo dục. Tôi nói: [Phật giáo]
chẳng xung đột với quư vị, Thượng Đế của
quư vị trông nom việc hành chánh, giống như
người đứng đầu một đất
nước. Chúng tôi cũng chẳng phải là bộ
trưởng giáo dục, chúng tôi là dân thường,
giống như Khổng lăo phu tử, là giáo học dân gian.
Giúp đỡ, thành tựu quư vị, Phật giáo chẳng
phản đối bất cứ tôn giáo nào. Phật giáo thừa nhận thần của quư vị, giống như
thừa nhận người lănh đạo quốc gia;
nhưng Phật giáo chẳng tham gia chánh trị, mà là
một loại giáo học dân gian. Họ nói: “Người sau khi
chết đi th́ sao?” “Chúng tôi lên thế giới Cực Lạc”. Họ nói: “Người sau khi đă chết th́ ai là người
phán quyết cuối cùng?” Tôi nói quyền phán quyết là Thượng Đế, họ
rất hoan hỷ. Tôi nói Phật giáo chẳng phán quyết
người khác, Phật giáo chỉ dạy bảo con
người, chỉ dạy người ta đoạn ác, tu thiện, chứ
Phật giáo chẳng xét đoán con
người. Trong Phật giáo chẳng t́m được
chuyện phán quyết. V́ thế, chúng tôi đối xử
với nhau rất vui vẻ, tôn trọng họ, quư vị
là người lănh đạo quốc gia, quư vị là
bộ trưởng Tư Pháp. Tôi nói Phật giáo chẳng
vậy, Phật giáo là giáo học dân gian. Dạy những
ǵ? Dạy người ta đoạn ác, tu thiện. Trong kinh điển của họ đều có những
chuyện này. Từ từ,
những sự đối lập giữa các tôn giáo dần
dần được hóa giải.
Khi
chúng tôi tiến hành hoạt động tôn giáo trên quốc
tế, nhất là những hoạt động ḥa b́nh của
Liên Hiệp Quốc, tôi luôn mời các tôn giáo cùng đi, cùng nhau tham gia.
Tại đại hội Liên Hiệp Quốc, chúng tôi biểu diễn
một chút, các tôn giáo nắm tay
nhau, cầu nguyện cho thế giới ḥa b́nh. Chính họ vui vẻ, mà
đơn vị đứng ra tổ chức cũng vui vẻ. Điều
khó có là có nhiều tôn giáo bất đồng như vậy
đến cầu nguyện cho ḥa b́nh, chuyện này hay
lắm! Đặc biệt là Phật giáo, có
thể nói Phật giáo là giáo dục dân gian. Hành trạng suốt một đời
đức Thích Ca Mâu Ni Phật và Khổng Tử hết sức
giống nhau, chúng ta phải nhận biết rơ ràng
điều này. Dùng phương thức giáo
dục để giúp đỡ quốc
gia, giúp xă hội an định, giúp xă hội ḥa hài, giúp đỡ chúng sanh giác ngộ. Đối với người căn tánh nhạy bén, bèn giúp đỡ
họ trở về tự tánh. Do vậy, chúng ta phải nhận thức
rơ rệt, Phật giáo chẳng phải là mê tín, phải
uốn nắn cho đúng quan niệm sai lầm của
người đời đối với Phật giáo. Uốn
nắn chẳng phải là nói suông, mà phải nêu gương
cho người khác nh́n vào. Các đồng tu của Tịnh
Tông Học Hội có sứ mạng này. Hôm nay đă hết
thời gian rồi, chúng ta học tập tới chỗ này!
Tập
120
Chư vị pháp sư, chư vị
đồng học, xin hăy ngồi xuống. Xin xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang một trăm ba mươi chín, ḍng thứ tư từ dưới
đếm lên, xem từ chính giữa, xem từ chữ “tam thừa”:
“Tam thừa giả, thừa giả, xa dă. Tứ Giáo Nghi Tập Chú viết:
Thừa dĩ vận tải vi nghĩa, vận xuất tam
giới, quy ư Niết Bàn”
(Tam thừa: Thừa là cỗ xe. Sách Tứ Giáo Tập Nghi
Chú[2]
giảng: “Thừa có nghĩa là chuyên chở, chuyên chở
thoát khỏi tam giới, trở về Niết Bàn”). Chúng tôi
giải thích đoạn này. Câu này [nhằm giải thích
một câu] trong kinh văn là “thiện
lập phương tiện, hiển thị tam thừa”. Chúng ta đă học về “thiện lập phương tiện”, nay xem
đến Tam Thừa. Chữ Thừa (乘) đọc theo cổ âm là Thặng,
hiện thời đọc là Thừa; đọc Thặng mọi người đều chẳng biết nghĩa là ǵ, có lẽ có
người nói chúng ta đọc sai,
nên thuận theo tập
tục [mà đọc là Thừa]! Thừa là cỗ xe. Trong Tứ Giáo Nghi Tập Chú có
một câu giải thích như thế này: Thừa là cỗ
xe, xe có ư nghĩa chuyên chở, ở đây dùng ư nghĩa ấy.
“Vận xuất tam giới,
quy ư Niết Bàn” (chở ra khỏi tam giới, trở
về Niết Bàn). Phật pháp dùng Thừa làm tỷ dụ, giống như cỗ xe, Phật pháp có thể giúp chúng ta vượt khỏi tam giới, giống như chúng
ta ngồi xe có thể đi xa, mang ư nghĩa này. Tam giới là lục đạo luân hồi, nói “tam giới” hay nói “lục đạo”, ư nghĩa hoàn toàn giống nhau. Tam giới là Dục
Giới, Sắc Giới, Vô Sắc
Giới. Dục Giới có sáu tầng trời, dưới
Tha Hóa Tự Tại Thiên có sáu tầng trời, kể
cả A Tu La đạo, nhân đạo, súc sanh đạo, ngạ quỷ, địa ngục đều thuộc
về Dục
Giới. V́ họ chẳng ĺa khỏi năm thứ ham muốn là “tài, sắc, danh vọng, ăn uống,
ngủ nghỉ”, nên
gọi là Dục
Giới. Dục Giới càng lên cao, ngũ dục càng
nhạt ít, càng
đi xuống, càng nghiêm trọng. Chúng ta chớ nên không biết
điều này!
Hễ liễu giải chúng ta bèn
hiểu rơ: Mong vượt thoát, nhất định
phải buông ngũ dục lục trần xuống. Tài, sắc, danh vọng, ăn
uống, ngủ nghỉ là ngũ dục. Lục trần là đối tượng tiếp xúc của
sáu căn; mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ư là sáu căn, đối tượng tiếp xúc là sắc, thanh,
hương, vị, xúc, pháp. Ư là ư niệm, ư đối ứng với Pháp Trần. Những thứ này đều phải
nhạt bớt, càng nhạt bớt càng hay! Thật sự có thể buông xuống, sẽ vượt thoát Dục Giới,
đến nơi đâu? Đến Sắc
Giới. Chư vị phải
hiểu Sắc Giới có mười tám tầng trời, đó là chư thiên. Chư thiên
Sắc Giới trọn chẳng đoạn
dục, chư vị phải biết điều này. V́ sao họ chẳng có dục? Họ có công phu
Thiền Định. Khi họ nhập
Định, Định có công năng chế ngự
ngũ dục, lục trần, nên
họ là Phục Đoạn (đoạn trừ bằng
cách chế phục), chẳng phải là Diệt
Đoạn (đoạn trừ sạch sành sanh), nhưng họ có Sắc. Lên cao hơn là Vô Sắc Giới Thiên, đây là tầng cao nhất trong lục đạo. Vô Sắc Giới th́ ngay cả nhục
thân cũng chẳng có, chữ Sắc chỉ thân thể vật chất và
hiện tượng vật chất. Do vậy có thể
biết, trong bốn tầng
trời của Vô Sắc Giới, chỉ có hiện
tượng tinh thần tồn
tại, chẳng có vật chất, chẳng có nhục thân
vật chất, mà cũng chẳng có
những kiến trúc vật chất, quư vị đều chẳng nh́n thấy. Chúng ta
thường gọi những cơi trời ấy là “linh giới”, linh hồn của
họ tồn tại. Đó là phàm phu cao cấp.
Vô Sắc Giới Thiên tuy khá lắm, nhưng
chẳng vượt thoát tam
giới, tức là chẳng vượt
thoát lục đạo luân hồi. Vô Sắc Giới Thiên tốt đẹp, trong
ấy gần như là Niết Bàn. Niết Bàn là bất sanh, bất diệt, cơi trời ấy giống như Niết
Bàn, nhưng chẳng
phải là Niết Bàn thật
sự. Chư thiên Sắc
Giới đạt tới cảnh giới cao nhất trong
Tứ Thiền Bát Định, tưởng lầm Vô Sắc Giới Thiên
là Niết Bàn. Vô Sắc Giới Thiên vẫn có thọ mạng, thọ
mạng dài nhất là tám vạn đại
kiếp, thời gian ấy thật dài. “Đại kiếp”: Một đại kiếp là một
lần “thành, trụ, hoại, không” của thế giới
này, đủ thấy thế giới này vô
thường. Một lần thành - trụ - hoại - không gọi là một
đại kiếp. Thành - trụ - hoại - không tám vạn lần, quư vị nghĩ xem, thời gian ấy dài lắm! Tuy dài, rốt cuộc vẫn có ngày
chấm dứt, đến ngày ấy, họ đánh
mất công năng Thiền Định. Công năng
Thiền Định vừa mất đi, phiền năo bèn hiện
tiền. Ư niệm sai lầm đầu tiên là kẻ ấy tưởng lầm [Vô Sắc Giới Thiên] là bất sanh, bất
diệt; cớ sao lại có sanh diệt? [Do hiểu lầm], bèn hủy báng thánh hiền. Thánh hiền đă
nói “Niết Bàn bất sanh, bất diệt”, nay kẻ ấy đă mất công
năng Thiền Định, phiền
năo hiện hành, bèn nghĩ các vị thánh
hiền lừa gạt họ, ư niệm ấy chính là
đại bất kính đối với các vị thánh
hiền. Đại bất kính đối với thầy, đối với thánh hiền th́ tội nghiệt
ấy có cùng mức độ với tội bất
hiếu với cha mẹ. Nếu
kẻ nào bất hiếu với cha
mẹ, không tôn trọng thánh hiền, quả báo là trong địa ngục A Tỳ. Do đó, quư vị thấy trèo lên cao
nhất, trèo đến tầng trời Phi Tưởng Phi
Phi Tưởng, té lộn nhào xuống cũng nặng nhất, rơi xuống địa ngục A Tỳ,
cầu làm thân người chẳng
được! Trong kinh điển, đức Phật
giảng chuyện này rất nhiều, và cũng giảng rất rơ ràng. Dụng ư nhằm đặc biệt
nhắc nhở chúng ta, chúng ta mong
thành Phật, chúng ta phải
sanh về Tây Phương Tịnh Độ, đừng cầu thiên đạo!
Đạt đến chỗ cao nhất trong thiên đạo, vẫn
chẳng thể giải quyết vấn đề! Hai
mươi tám tầng trời chẳng thể giải quyết
vấn đề, huống
hồ Dục Giới!
Người b́nh phàm sanh lên trời, tuyệt đại đa số đều là sanh trong Tứ Vương Thiên
hoặc Đao Lợi Thiên, v́ sao? T́nh chấp và dục
vọng chưa đoạn, khá hơn
người b́nh phàm chúng ta một chút, nhạt bớt
một chút, nhưng chưa đoạn, nên họ tiến
cao hơn vô cùng khó khăn! Đó là ư nghĩa của tam
giới. “Vận xuất tam
giới” (chở thoát ra tam giới), nương theo Phật pháp tu hành, có thể
vượt thoát tam giới, “quy ư Niết Bàn”
(trở về Niết Bàn).
Tiểu Niết Bàn, chẳng phải là
Niết Bàn thật sự, mà là Tương Tự Niết Bàn, là sở chứng của A La Hán,
vượt thoát tam giới là chứng đắc [của hàng A La Hán], điều này trong phần sau chúng tôi
sẽ c̣n nhắc tới.
Chúng ta lại xem phần tiếp theo: “Hựu dụ
như vận tải công
cụ, sử nhân
thừa chi các đáo kỳ quả địa, Pháp Hoa dĩ dương, lộc,
ngưu chi tam xa, dụ Tiểu, Trung, Đại tam
thừa. Tiểu giả, Thanh Văn Thừa. Trung giả,
Duyên Giác Thừa. Đại giả, Bồ Tát Thừa” (lại ví như công cụ vận
tải, khiến cho người ngồi trên đó ai
nấy đều đạt đến quả
địa. Kinh Pháp Hoa lấy ba loại xe dê, nai, trâu để sánh ví ba
thừa Tiểu, Trung, Đại. Tiểu là Thanh Văn Thừa.
Trung là Duyên Giác Thừa. Đại là Bồ
Tát Thừa). Đoạn này giảng rơ hơn sách
Tứ Giáo Nghi, đây chính là những điều được nói trong kinh Pháp Hoa. Kinh
Pháp Hoa nói “tam thừa” là ba
cỗ xe. Xe chính là ư nghĩa của Thừa. Nói đến
ba loại xe, xe dê, xe nai và xe trâu. Xe dê thời cổ rất
nhỏ, chỉ có thể chở được một
người. Xe nai lớn hơn một chút, có thể
ngồi hai người. Xe trâu rất lớn, đại
khái có thể ngồi năm, sáu người. Trên thực tế,
kinh Pháp Hoa nói “đại
bạch ngưu xa” th́ Đại Bạch Ngưu Xa chính
là xe ngựa trong hiện tại[3].
Hiện thời, công cụ giao thông này chẳng c̣n nữa,
được thay thế bằng xe hơi. Thời
xưa, đừng nói là rất xưa, ngay trong lứa
tuổi của tôi, nhằm lúc tôi học Tiểu Học và
Trung Học, chúng tôi cũng ngồi xe ngựa. Tôi c̣n
nhớ, lúc học Tiểu Học, ngồi xe ngựa;
lũ học tṛ bé, một xe ngựa có thể ngồi
được mười bốn, mười lăm đứa. Dùng chuyện này để tỷ dụ nó có thể
chuyên chở bao nhiêu người, mà nói là Đại, Trung,
Tiểu. Xe nhỏ ví như Thanh
Văn, Thanh Văn là A La Hán, A La Hán gọi Tiểu Thừa. Người Tiểu Thừa chỉ
cầu tự độ, chẳng phát tâm giúp đỡ người khác. Trung Thừa là Duyên Giác, tức Bích Chi Phật, thông minh hơn A La Hán, nhưng tâm lượng cũng chẳng lớn lắm. Chẳng phải là
thiếu tâm từ bi, mà là tâm từ bi chẳng to lớn. Quư vị đến t́m họ, nếu họ thích quư vị th́ sẽ có
thể dạy quư vị, do có
duyên với quư vị. Họ chẳng thích th́ sẽ không ngó ngàng
tới quư vị. Đó là Thanh Văn và Duyên
Giác. Bồ Tát khác hẳn, quư vị không đi t́m các Ngài, mà các Ngài chủ động
đến dạy quư vị. Các Ngài chẳng có tâm phân biệt, chẳng
có tâm ưa ghét, nên Bồ Tát được gọi là Đại Thừa.
Trong phẩm Thí Dụ của kinh Pháp Hoa có một đoạn như thế
này: “Như Lai
hữu vô lượng trí huệ, lực, vô sở úy, chư pháp chi tạng, năng dữ
nhất thiết chúng sanh Đại Thừa chi pháp” (Như Lai có vô lượng trí huệ,
lực, vô sở úy, các pháp tạng, có thể ban cho hết
thảy chúng sanh pháp Đại Thừa),
chữ Đại Thừa
chỉ Nhất Phật Thừa, “đản
bất năng tận thọ” (nhưng [chúng sanh]
chẳng thể nhận lănh hết được). Tuy
đức Phật rất từ
bi, nhưng pháp Nhất Thừa là phương pháp thành Phật, người
b́nh phàm chẳng thể tiếp nhận. “Xá Lợi
Phất”, câu này nói với ngài Xá
Lợi Phất, “dĩ thị
nhân duyên, đương tri chư Phật
phương tiện lực cố, ư nhất Phật Thừa, phân
biệt thuyết tam” (do nhân
duyên ấy, hăy nên biết chư Phật do sức
phương tiện, đối với Nhất Phật Thừa mà phân biệt nói thành ba), tam thừa do vậy mà có. Phật tâm b́nh đẳng, Phật nguyện rộng
sâu, Phật mong mỏi hết thảy chúng sanh đều có thể
thành Phật. V́ thế, trong giáo pháp Đại Thừa,
đức Phật thường nói: “Hết thảy
chúng sanh vốn là Phật”. Phật giúp đỡ chúng sanh, nhất định dạy họ trở về tự tánh. Trở
về tự tánh bèn thành Phật, [bởi lẽ], họ vốn là Phật. Mê mất tự tánh, chẳng quay về được! Muốn trở về
cũng chẳng phải là chuyện đơn giản
như thế, vẫn chẳng thể trở về, đó
là phàm phu trong lục đạo. Lục
đạo phàm phu, nhân gian, Dục
Giới Thiên chẳng mong trở về, nhưng
Sắc Giới Thiên và Vô Sắc Giới Thiên
thật sự muốn quay về! Họ muốn quay về
mà cũng chẳng về được,
huống ǵ các phàm phu trong Dục
Giới! Đức Phật
bất đắc dĩ, phân
biệt Nhất Phật Thừa thành ba giai đoạn, mỗi giai đoạn sau nâng cao hơn giai
đoạn trước. Điều này giống như mở trường học, thầy và cha mẹ đều hy vọng học
tṛ đứa nào cũng đạt được học
vị Tiến Sĩ, đấy là Phật tâm. Nhưng
có phải là
ai nấy đều đạt
được hay không? Chẳng phải! Chẳng phải là
người nào cũng đều có thể đạt được; do vậy, nhà trường mới lập ra ba
học vị, có Học
Sĩ, Thạc Sĩ, và Tiến Sĩ, khá giống với tam thừa!
Mấy câu trong phần trước nói
về Như Lai, nhưng trên thực tế là nói về chính
ḿnh. “Như Lai có vô
lượng trí huệ”, Ngài chẳng nói “Phật”, chẳng nói “chư Phật có vô lượng trí huệ”, mà nói “Như Lai”. Kinh Đại Thừa nói “chư Phật” th́ quá nửa
là nói theo tướng; nói “Như Lai” đều là nói theo tánh. Trong kinh Hoa Nghiêm,
đức Phật dạy: “Hết thảy chúng sanh
đều có trí huệ và đức tướng của Như Lai”, nói Như Lai, chẳng nói Phật! Nói Như Lai là nói
theo tự tánh. Hết thảy chúng sanh đều có Phật
tánh; đă có Phật tánh, đương
nhiên có thể thành Phật. Trong Phật
tánh có vô lượng trí huệ, có vô lượng lực. Lực là ǵ? Năng lực, nay
chúng ta gọi [năng lực] là “tài
nghệ”. Có vô lượng tài nghệ, quư
vị có năng lực. Trong
kinh Phật có nói: Chư Phật Như Lai có mười
thứ năng lực, “mười” tượng trưng cho sự viên măn, không phải là
con số, đúng là “không ǵ
chẳng biết” là trí huệ, “không ǵ chẳng thể” là mười lực. Mười lực tượng trưng
cho “không ǵ chẳng thể”, chẳng có ǵ không làm được! “Vô sở úy” là bốn thứ không sợ hăi. “Chư pháp chi tạng, năng dữ nhất thiết chúng sanh Đại Thừa chi pháp” (tạng các pháp có thể ban cho hết
thảy chúng sanh pháp Đại Thừa), đức Phật có năng lực ấy, có năng lực giúp đỡ hết thảy chúng sanh chứng đắc Phật quả rốt ráo trong một
đời. Nói theo lư luận, phàm
phu thành Phật mất thời gian bao
lâu? Trong một niệm! Một niệm
giác, phàm phu bèn thành Phật. Một niệm mê, quư vị là phàm
phu. Câu này hoàn toàn là lời thật. Một niệm ấy là niệm ǵ? Theo cuộc đối thoại giữa Thích Ca Mâu Ni Phật
và Di Lặc Bồ Tát, trong một cái
khảy ngón tay có ba mươi hai ức
trăm ngàn niệm, [“một niệm bất
giác” vừa nói trên đây] chính là một niệm trong
[một cái khảy ngón tay]. Chỉ
cần một niệm giác, phàm phu bèn
thành Phật, bất giác th́ chẳng có cách nào. Trong tựa đề
kinh này cũng chỉ rơ tam thừa, quư vị thấy
tựa đề kinh, về phần tu nhân là “thanh tịnh, b́nh
đẳng, giác”. Thanh tịnh là Tiểu
Thừa, Tiểu Thừa bao gồm cả Duyên Giác; b́nh đẳng là Đại Thừa, là Bồ Tát, chữ Giác sau cùng là Nhất
Thừa, đó là thành Phật. V́ vậy, kinh này cũng là đức
Thế Tôn v́ hết thảy chúng sanh mà hiển thị tam
thừa.
Chúng ta tu học, nếu đại triệt
đại ngộ, minh tâm kiến tánh
trong một đời này,
vấn đề ấy đă được giải
quyết, bèn thành Phật. Nếu chẳng đạt
được cảnh giới này,
hăy tùy phần tu học, cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Tây Phương Cực Lạc thế giới có bốn cơi, ba bậc, chín phẩm. Tây Phương Cực
Lạc thế giới là nơi A Di Đà Phật lập trường
học. Trường ǵ vậy? Trường dạy phàm phu
thành Phật, bảo đảm quư vị thành Phật. Điều này rất khó có, một
phẩm phiền năo chưa đoạn mà
vẫn có thể văng sanh, sanh vào cơi Phàm Thánh Đồng Cư trong
thế giới Cực Lạc, một phẩm phiền năo cũng
chẳng đoạn đấy nhé! Thật sự đoạn mấy
phẩm phiền năo, chẳng hạn như các loại
phiền năo nặng nhất và thô nhất trong Kiến Tư phiền năo là Thân Kiến, Biên Kiến, Kiến Thủ Kiến, Giới Thủ Kiến, và Tà Kiến, trong phần
trước đă giảng rất
nhiều. Năm loại Kiến Hoặc ấy
có tất cả là tám mươi tám
phẩm. Đoạn hết tám mươi tám phẩm
Kiến Hoặc ấy chính là Tiểu
Thừa Tu Đà Hoàn,
tức là Tiểu Thừa Sơ
Quả, người như vậy văng
sanh Tây Phương Cực
Lạc thế giới chẳng ở trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư. V́ sao? Người ấy
chẳng phải là phàm phu. Nói theo thế gian này,
người ấy là thánh nhân, là bậc thánh nhân nhỏ nhoi, chẳng
phải là phàm phu. Bậc thánh nhân nhỏ nhoi tuy vị trí rất thấp, nhưng cao minh hơn
bọn lục đạo phàm phu chúng ta quá nhiều. Sau khi
vị ấy chứng đắc Sơ Quả, Ngài
có năng lực, ở trong lục đạo luân hồi, qua
lại bảy lần trên cơi trời hoặc trong nhân gian, chắc chắn
chẳng đọa trong tam ác đạo, bảo đảm chuyện này! Và cũng chỉ có bảy lần, chẳng có lần thứ
tám, [chỉ là] bảy lần, chắc chắn vượt
thoát tam giới lục
đạo, chứng quả A La Hán. Người như vậy văng
sanh Tây Phương Cực
Lạc thế giới, sanh về cơi Phương Tiện
Hữu Dư, chẳng ở trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư, đó là Tiểu Thừa. Ở nơi đây tu đến cảnh
giới Tiểu Thừa, văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, bèn sanh trong cơi Phương Tiện. Nếu ở nơi đây, chúng ta tu hành đạt tới cảnh giới Bồ
Tát, văng sanh Tây Phương Cực
Lạc thế giới, sẽ chẳng sanh vào cơi Phương Tiện Hữu Dư, mà sanh trong cơi Thật Báo Trang Nghiêm, có địa vị b́nh
đẳng với các vị Pháp Thân Bồ Tát trong cơi
Thật Báo thuộc Tịnh Độ của chư Phật Như Lai. Trong Phật giáo Trung
Quốc, những người ấy là những vị được
Thiền Tông gọi là “đại triệt đại
ngộ, minh tâm kiến tánh”, Giáo Hạ gọi họ là
“đại khai viên giải”, trong Tịnh Độ Tông gọi là “Lư nhất tâm bất loạn”. Chứng đắc Lư nhất tâm bất loạn, sanh vào cơi Thật Báo. Đến thế giới Cực Lạc,
chứng Thường Tịch Quang, Thường Tịch Quang là trở về tự tánh viên măn.
Bổn nguyện của đức Phật đích
xác là hy vọng mỗi cá nhân chúng ta đều có thể viên thành Phật
đạo ngay trong một đời. Phàm phu viên thành Phật đạo trong một đời th́
chỉ có pháp môn này. Phật pháp
nói tám vạn bốn ngàn pháp môn, bất
cứ pháp môn nào quư
vị cũng đều chẳng
thể thành tựu trong một đời! Chỉ có pháp môn Niệm Phật Văng Sanh này là thật sự thành tựu ngay trong một
đời! Trong đời này, chúng ta có thể gặp gỡ pháp môn này, [quả thật] chẳng
dễ dàng. Đă gặp gỡ th́ nhất
định phải quư trọng,
phải nắm chặt pháp này, ngàn vạn phần chớ
nên khinh dễ bỏ qua; [nếu bỏ lỡ] th́ chính là lầm lẫn
quá đỗi! Gặp được pháp môn này,
đúng như cổ đại đức đă nói: “Trăm ngàn
vạn kiếp khó gặp
gỡ”. Vào đời Thanh trước kia, ông Bành Tế Thanh đă nói: “Hy hữu khó gặp từ vô
lượng kiếp đến nay”, ông ta nói pháp môn này hiếm
có, khó gặp trong vô lượng kiếp! Đời này, quư
vị gặp gỡ, hăy nắm vững nó, pháp môn này “vạn người tu, vạn người
đến”, câu này do Thiện Đạo đại
sư nói, chẳng phải là lời giả! Nhưng học Phật, bất luận học pháp môn nào, nói chung, nhất
định phải biết buông xuống. Buông những ǵ xuống? Buông phiền năo xuống, buông tập khí xuống. Cổ đại
đức thường dạy chúng ta, hễ điều
ǵ chẳng mang theo được, bèn buông xuống. Chúng ta suy
ngẫm, người đă chết có thể mang theo ǵ
vậy? Tài sản của quư vị chẳng mang theo
được, thân t́nh chẳng mang theo được, tước vị chẳng mang theo được, kể
cả thân thể của
quư vị cũng chẳng mang theo được! Phải
hiểu rơ chỗ này. Chẳng mang theo
được th́ hăy buông xuống, đó là giả, chẳng thật. Điều
nào mang theo được
th́ quư vị bèn
đổ công dốc sức nơi đó. Đức hạnh mang
theo được, công đức có thể mang theo được. Tŕ giới hữu công, tam-muội là đức, tam-muội là Thiền Định. Thiền Định là Công,
khai trí huệ là Đức, những điều này có
thể mang theo được. Ngược lại,
những tội nghiệp do quư
vị đă tạo cũng
có thể mang theo. Nếu mang theo một
thân tội nghiệp, đời sau sẽ sanh
trong tam ác đạo. Suốt
đời này, quư vị làm rất nhiều chuyện tốt, những
chuyện ấy cũng có thể mang theo được. Do những chuyện tốt ấy, đời sau sanh lên trời, nhưng
đều chẳng bằng buông xuống vạn duyên, nhất tâm niệm Phật. Niệm Phật có thể mang
theo được, niệm Phật có thể văng sanh Tịnh Độ. Do vậy, phải
thường nghĩ tới những ǵ có thể mang
theo được, chúng ta nghiêm túc nỗ lực thực
hiện. Học tập kinh giáo giúp chúng ta khai ngộ. Chúng ta đọc kinh Vô Lượng Thọ, học tập kinh Vô Lượng Thọ, tăng trưởng sự
hiểu biết đối với Tây
Phương Cực Lạc thế
giới, thật sự nhận biết rơ ràng, minh
bạch, tín tâm mới có thể kiên định, nguyện tâm chẳng lùi; đó là điều kiện ắt phải
hội đủ ḥng văng sanh thế giới Cực
Lạc.
Tiếp đó, chúng ta lại xem [những
lời giảng giải về] phương tiện, “thiện lập phương tiện”: “Hựu, Pháp Hoa Văn Cú viết: ‘Phương tiện giả, môn dă’ (lại nữa, sách Pháp Hoa Văn Cú nói:
“Phương tiện là cửa”).
Đây là tỷ dụ. “Vị chân thật tác môn, chân thật đắc
hiển, công do phương tiện. Y thử thích, tắc
Tiểu Thừa vi nhập Đại Thừa chi môn, cố
vị chi phương tiện giáo. Hựu, tam thừa vi
thông ư Nhất Thừa, cố diệc danh phương
tiện giáo. Dĩ thượng kinh luận, chánh hiển ‘thiện lập phương tiện, hiển
thị tam thừa’ chi chỉ” (làm cửa để thâm nhập chân thật, hiển
lộ được sự chân thật, toàn do công của
phương tiện. Theo cách giải thích này, Tiểu Thừa là cái cửa
để vào được Đại Thừa, nên Tiểu
Thừa được gọi là giáo pháp phương
tiện. Hơn nữa, do tam thừa thông với Nhất Thừa,
nên tam thừa cũng gọi là giáo pháp phương tiện.
Những
đoạn kinh, luận trên đây thật sự tỏ rơ yếu chỉ “thiện
lập phương tiện, hiển thị tam thừa”). “Phương” là phương pháp, “Tiện” là thuận tiện. Nói cách khác, là
phương pháp rất thích hợp, phương pháp tốt nhất, phương pháp
mầu nhiệm nhất. Trong Phật
pháp, thường dùng chữ “thiện xảo”, “thiện xảo” là phương tiện. Do vậy,
phương tiện chẳng phải là phương pháp
nhất định; do mỗi người mỗi khác, do
mỗi chuyện mỗi khác, tùy thuộc vào đó mà
biến hóa vô cùng. Khéo dùng phương tiện là trí huệ;
thiếu trí huệ sẽ chẳng biết
dùng.
Trong những người có trí huệ, Phật là bậc trí huệ viên măn. Như Lai có vô
lượng trí huệ, nên phương
tiện môn của Ngài cũng là vô lượng vô biên, vô lượng phương tiện! Sánh
ví phương tiện như
cửa, cửa có ư nghĩa “có thể tiến vào”. V́ sao? “Vị chân thật tác môn” (làm cửa để thâm nhập sự
chân thật). Tông môn gọi “chân
thật” là “minh tâm kiến tánh”, đó là chân thật.
Chân là chẳng giả, Thật là chẳng hư dối. Trong kinh
Đại Thừa, đức Phật
dạy: “Phàm những ǵ có h́nh tướng đều là hư vọng”, hư vọng chẳng phải là chân thật, chân thật chẳng phải là hư vọng. Chân
thật là ǵ? Chân thật là tự tánh,
chỉ có điều này là chân thật. Vũ
trụ do nó biến hiện, vạn pháp cũng do nó biến hiện. Do v́ tự tánh có thể sanh, có thể hiện, nên nó là thật, c̣n những cái được sanh,
được hiện chẳng thật. Thật ra, cái được sanh, cái được hiện sanh diệt
trong từng sát-na, sát-na chẳng
trụ. Trong kinh Phật, thường thấy có câu như vậy. “Sát-na
chẳng trụ” là sanh diệt trong từng sát-na, chẳng thật, chỉ có tự tánh là bất sanh, bất diệt. V́ thế, ngôn ngữ cổ của Ấn Độ
là tiếng Phạn, gọi [bất sanh bất diệt] là Niết Bàn. Niết Bàn có nghĩa là “bất sanh, bất diệt, chân
thật”. “Chân thật
đắc hiển”: Quư vị thấu
hiểu, chứng đắc. “Công” là có phương tiện, công phu là phương tiện; phương tiện có công, chân thật bèn hiển hiện. Nếu quư vị
chẳng từ phương tiện môn, quả thật
chẳng có cách nào minh tâm kiến tánh!
Theo
cách giải thích này, tiếp đó bèn nói: “Tắc Tiểu Thừa vi nhập Đại Thừa chi môn” (Tiểu Thừa là cửa
để nhập Đại Thừa), đó là pháp phương tiện. Thuở đức Phật tại thế, tiếp nhận lời
thỉnh pháp của chư thiên trời Tịnh Cư, họ thỉnh
đức Phật trụ thế, thỉnh Ngài chuyển pháp luân, tức là thỉnh Thích Ca Mâu Ni Phật hăy trụ trong thế gian giáo hóa chúng sanh. Thích Ca Mâu Ni Phật nhận lời. Sau khi đă nhận
lời, bèn bắt đầu giáo học.
Đầu tiên là những người hữu duyên. Ngài rời khỏi gia đ́nh, đi tham học bên ngoài, cha mẹ Ngài
rất quan tâm, sai năm người đi theo chăm sóc.
Năm vị ấy ở Lộc Dă Uyển. Sau khi
đức Phật khai ngộ,
rời cội Bồ Đề, đến Lộc Dă Uyển t́m
năm người ấy. T́m được năm
người ấy, bèn giảng cho họ
nghe pháp Tứ Đế, giảng Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Năm người
nghe xong, tôn giả Kiều Trần Như giác ngộ, chứng Tứ Quả La Hán. Do căn
tánh khác nhau, căn
tánh của năm
người
không giống
nhau, có
người chứng Sơ
Quả, có
người chứng Nhị
Quả,
chỉ riêng ngài Kiều Trần Như chứng Tứ Quả. Chứng Tứ Quả cũng là Kiến Tư phiền năo thảy đều buông xuống, kinh Hoa Nghiêm gọi [Kiến Tư phiền năo] là chấp trước. Đối với pháp thế
gian và xuất thế gian đều chẳng chấp trước, đắc thanh tịnh tâm. Đối với “thanh tịnh” như trong tựa đề
kinh này, Ngài đắc thanh tịnh tâm, thành A La Hán, đó là pháp phương tiện. Lại giúp cho vị ấy
đắc tâm b́nh
đẳng,
cuối cùng, giúp vị ấy đại triệt đại ngộ. Quư vị thấy đó, đều là nói rơ: Dùng phương tiện hướng dẫn
vị ấy hiển lộ sự chân thật, nên là giáo pháp phương tiện. Tam Thừa, tức
Tiểu
Thừa, Trung Thừa, và Bồ
Tát Thừa,
cuối cùng đều đạt tới Nhất Thừa, nên giáo pháp Tam Thừa c̣n
được gọi là Phương Tiện Giáo. Cụ Hoàng Niệm Tổ nêu ra
những cách nói trong các kinh
luận; sau đó, kết luận: “Dĩ thượng kinh luận” (các kinh luận trên đây),
[tức là] các kinh luận được trích luận
ở đây, “chánh hiển thiện lập
phương tiện, hiển thị Tam Thừa chi chỉ” (thật sự tỏ rơ yếu chỉ “thiện
lập phương tiện, hiển thị tam thừa”). “Chỉ”
(旨) là tông chỉ (宗旨). Tông chỉ là mục tiêu chủ yếu, nhắm đến Nhất Thừa, chúng ta nhất định phải
biết điều này. Đức Phật giáo hóa chúng sanh, sở hành trong cả
đời Ngài toàn là giáo pháp phương tiện, mục tiêu chung cực là giúp quư vị thành Phật, lấy “chứng đắc Phật quả
rốt ráo viên măn” làm mục
tiêu giáo học chung cực. Từ chỗ này, chúng ta mới
thật sự thấu hiểu ḷng từ bi vô tận của chư Phật Như Lai đối với
hết thảy chúng sanh. Các Ngài giúp đỡ chúng ta chẳng phải là giúp
chúng ta đến một giai đoạn rồi thôi, các
Ngài một mực giúp cho chúng ta đạt đến
rốt ráo viên măn. Những điều trên đây là tướng
thứ bảy, tức Chuyển Pháp Luân, giảng tới đây [là xong].
Tiếp theo đó là tướng thị hiện
cuối cùng trong tám tướng thành đạo, tức là “nhập Niết Bàn”. “Ư
thử trung hạ, nhi hiện diệt độ” (trong
hàng trung hạ căn, thị hiện diệt độ). Diệt Độ là Niết Bàn. Chúng ta đọc lời chú giải của cụ Niệm Tổ: “Trung hạ,
cứ Ngụy dịch Tích Sa
Tạng bổn dữ Cao Ly Tạng bổn” (Chữ “trung hạ” dựa theo bản
Ngụy dịch trong các bản Tích Sa Tạng[4]
và Cao Ly Tạng[5]).
Hai chữ “trung hạ”
vốn căn cứ trên bản dịch của ngài Khang
Tăng Khải. Tích Sa Tạng là bản
in [kinh Đại Tạng] đời
Tống, và bản chép trong Cao Ly Tạng đều có hai
chữ “trung hạ”, tức “ư
thử trung hạ”. Tiếp đó,
cụ có giải thích “trung hạ”
là ǵ, “nhi hiện Niết Bàn” là thị hiện diệt độ. Nói cách khác, Ngài chẳng nói đến bậc
thượng, chẳng nói tới thượng
thượng. V́ sao? Người
thượng thượng căn đă biết Thích Ca Mâu Ni Phật
có hiện Bát Niết Bàn hay không? Chẳng có! Kẻ căn tánh trung
hạ thấy Thích Ca Mâu Ni Phật nhập Bát Niết Bàn. “Thử
thị bát tướng thành đạo trung chi đệ bát, Bát Niết Bàn tướng” (đây
là tướng thứ tám trong tám tướng thành
đạo, tức là tướng Bát Niết Bàn), đây là tướng
nhập diệt của Thích
Ca Mâu Ni Phật. Niết Bàn
(Nirvāṇa), là tiếng Phạn, tức là ngôn ngữ của Ấn Độ [cổ
đại], “cựu dịch vi Diệt Độ, tân dịch vi Viên Tịch”
(dịch theo lối cổ là Diệt Độ, dịch theo lối mới là Viên Tịch). Chúng ta
phải hiểu ư nghĩa hai chữ Tân và Cựu này. “Cựu dịch” là [cách dịch thuật] trước thời Huyền
Trang đại sư,
do các vị cổ đại
đức phiên dịch. Các Ngài
dịch Niết Bàn là Diệt Độ, ư nghĩa cũng
rất hay. Diệt (滅) là ǵ? Diệt phiền năo, Độ (度) là “độ sanh tử” (vượt
thoát sanh tử), độ luân hồi.
Diệt Kiến Tư phiền năo, Độ là vượt thoát. Vượt thoát tam
giới lục đạo, diệt Trần Sa phiền năo,
diệt Vô Minh phiền năo, vượt thoát mười pháp giới, quư
vị mới có thể đạt tới. Độ là đạt đến, đạt đến cơi Thật Báo Trang Nghiêm của chư Phật Như Lai. Diệt có ư nghĩa sau đây: Diệt phiền năo, diệt ba thứ phiền năo, tức Kiến Tư, Trần Sa, và Vô Minh. “Tân dịch” là [cách dịch tuân theo quy định của] Huyền Trang đại sư, những kinh được phiên dịch từ thời Huyền Trang đại sư trở đi gọi là Tân
Dịch. Họ dịch hai chữ Niết Bàn thành Viên Tịch, cách dịch này rất
hay. Viên (圓) là viên măn, Tịch
(寂) là thanh tịnh tịch diệt, mang ư nghĩa này. Kế
đó là: “Diệt
độ giả, diệt sanh tử chi nhân quả, độ sanh tử chi bạo lưu”
(Diệt độ là diệt nhân quả sanh tử,
vượt thoát ḍng nước lũ sanh tử), “bạo lưu” (瀑流) là tỷ dụ, giống như sóng to, là cảnh giới sóng to
gió lớn, tức là nói đến
sự sanh tử trong lục đạo.
“Niết Bàn kinh viết: Diệt chư phiền năo, danh vi Niết Bàn. Ly chư hữu giả,
danh vi Niết Bàn” (Kinh Niết Bàn nói: “Diệt các phiền
năo, gọi là Niết Bàn. Ĺa các hữu gọi là Niết
Bàn”). Điều này chẳng khác các ư nghĩa vừa nói cho
lắm. “Diệt chư phiền năo” là nói [diệt trừ] Kiến Tư phiền
năo, Trần Sa phiền năo, và
Vô Minh phiền năo. Đó là ư nghĩa của Diệt, là ư nghĩa của Niết Bàn. “Ly” có
nghĩa là Độ. “Ly chư
hữu”: Chư Hữu là tam giới, tức
Dục Giới Hữu,
Sắc Giới Hữu,
Vô Sắc Giới Hữu, có ǵ vậy? Có nhân, có quả. Quư vị có cái
nhân Dục Giới th́
mới có quả báo Dục Giới. Quư vị có cái nhân Sắc Giới, bèn có quả báo Sắc
Giới. Có cái nhân Vô Sắc
Giới, bèn có quả báo Vô Sắc Giới. V́ thế, nếu
đổ công dốc sức nơi quả sẽ chẳng
thể giải quyết vấn đề! Quả báo hiện
tiền, nhất định phải giải
quyết từ nhân. Do nhân tâm (cái tâm chứa
đựng cái nhân) chẳng c̣n, quả báo chẳng
hiện, quả bị tiêu diệt. V́ tam
giới lục đạo là huyễn tướng, chẳng thật,
cổ đại đức sánh ví nó như mộng,
huyễn, bọt, bóng. Trong Chứng Đạo Ca, Vĩnh Gia đại sư đă nói rất hay: “Trong mộng
rành rành phô sáu nẻo”, “sáu nẻo” là lục đạo luân hồi, “giác rồi ba
cơi rỗng toang
hoang”. Quư vị giác ngộ giống như đă tỉnh giấc. Sau khi tỉnh giấc,
cảnh mộng chẳng c̣n nữa! Nếu thật sự giác ngộ, buông Kiến Tư phiền
năo xuống, thật sự giác ngộ,
chẳng thấy lục đạo nữa. Chẳng
thấy lục đạo, xuất hiện cảnh
giới ǵ? Xuất hiện bốn
thánh pháp giới, bốn thánh pháp giới là Tịnh Độ, là Tịnh Độ
của Thích Ca Mâu Ni Phật. Cảnh giới ấy vẫn chưa đạt
đến rốt ráo, v́ sao? Quư vị vẫn chẳng có cách nào
thoát ly mười pháp giới. Thoát ly lục đạo th́
vẫn c̣n có bốn thứ pháp giới trong mười pháp giới là Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, và Phật, quư vị chẳng có cách nào rời khỏi, nên
vẫn phải buông xuống. Buông phân biệt xuống, quư vị mới có thể tiến lên. Từ Thanh Văn, Duyên Giác, tiến lên Bồ Tát, từ Bồ Tát lại
tiến lên Phật. Đến địa vị Phật, nhất định phải buông vô minh xuống, buông Vô Minh phiền năo xuống. Buông vô minh xuống th́ mới có thể thoát ly mười pháp
giới, mười pháp giới cũng đều chẳng c̣n. V́ vậy, mười pháp giới cũng chẳng
thật. Lục đạo đúng
là cảnh mộng trong mộng!
Thoát ly mười pháp giới, Nhất Chân pháp giới hiện tiền, đó
là thật, chẳng giả,
trở về Nhất Chân.
Nhưng đối với Nhất Chân ở đây, theo kinh Hoa Nghiêm c̣n có bốn mươi mốt địa vị, bốn mươi mốt
địa vị ấy do đâu mà có? Đă đoạn vô minh phiền năo,
cũng có nghĩa là chúng ta đối với hết
thảy các pháp thế gian và xuất thế gian chẳng c̣n khởi tâm động niệm nữa. Khởi
tâm động niệm
là vô minh phiền năo. Chẳng khởi tâm, không động niệm, lấy đâu ra các
đẳng cấp? Không khởi tâm, chẳng động niệm là cảnh giới b́nh đẳng thật sự hiện
tiền; hễ khởi tâm
động niệm, sẽ không b́nh đẳng. B́nh đẳng thật sự hiện tiền, v́ sao đức Phật c̣n nói bốn
mươi mốt đẳng cấp? Trong Sớ Sao
của Thanh
Lương đại sư, tức là trong chú giải [kinh Hoa Nghiêm], Ngài đă nói: “Những vị ấy gọi là Phật
cũng được, mà gọi là Pháp Thân Bồ Tát cũng được”.
Tuy các Ngài đă đoạn vô thỉ vô minh, nhưng tập khí vẫn c̣n. V́ thế,
chúng ta hiểu: Bốn mươi đẳng cấp
ấy là do tập khí vô thỉ vô minh có dầy hay mỏng khác nhau. Người vừa mới phá vô minh phiền năo, đương
nhiên tập khí nặng hơn một
chút; người đă buông xuống khởi
tâm động niệm rất lâu,
tập khí sẽ mỏng hơn một chút. [Bốn mươi
mốt địa vị] là nói theo tập khí dầy hay
mỏng. Tập khí dầy hay mỏng có
liên quan đến sự tu hành và sự hóa độ người khác của chính ḿnh hay không? Thưa quư
vị, chẳng liên quan! Chẳng có mảy may chướng ngại. V́ thế, Sơ Trụ Bồ Tát
trong kinh Hoa Nghiêm, trí huệ, đức tướng và
quả vị rốt ráo chẳng khác chư Phật Như Lai, Sơ Trụ
đă thành Phật. Giống như trong phẩm Phổ Môn
miêu tả Quán Thế Âm Bồ
Tát, nên dùng thân ǵ để
đắc độ, Ngài có thể hiện thân ấy. Nên dùng thân Phật
để độ, Ngài liền hiện thân Phật. Nên dùng thân Bồ
Tát để độ, Ngài bèn hiện thân Bồ Tát, Ngài có thể tùy loại hiện thân. Kinh Lăng Nghiêm có nói: “Thuận
theo tâm chúng sanh, ứng
với khả năng nhận lănh của họ”, trí huệ và đức tướng tỏ lộ viên măn. Ngài Thanh Lương đă giúp chúng ta hóa giải nghi
vấn này. Đối với sự tu học của chúng
ta mà nói th́ Ngài đă hóa giải, đột phá một
tầng chướng ngại. V́ thế, “ly chư Hữu” cũng là ư nghĩa của
Niết Bàn. Niết Bàn có hai nghĩa là Diệt và Độ.
“Hựu Hiền Thủ Tâm Kinh Lược Sớ” (lại nữa, bộ Tâm Kinh Lược Sớ
của ngài Hiền Thủ). Trong tông Hoa Nghiêm, Hiền Thủ đại sư là thầy
của ngài Thanh Lương, là tổ sư đời thứ ba
của tông Hoa Nghiêm, Ngài có tác phẩm chú giải Tâm Kinh gọi là Lược
Sớ. Trong ấy cũng có nói: “Niết Bàn, thử vân Viên Tịch” (Niết Bàn được cơi này
dịch là Viên Tịch). Đây là Tân Dịch, nên dịch [Niết
Bàn] thành Viên Tịch. “Vị
đức vô bất bị xưng Viên, chướng vô
bất tận viết Tịch” (ư nói: Chẳng đức nào không trọn nên gọi là
Viên, chẳng chướng ngại nào không hết nên
gọi là Tịch), nêu ra một tiêu chuẩn để giải thích hai chữ này.
Viên là ǵ? Trí huệ, đức tướng, cũng như
đức Thế Tôn đă nói trong kinh Hoa
Nghiêm: “Hết thảy chúng sanh
đều có trí huệ và
đức tướng của Như Lai”. Trí huệ, đức
năng và tướng hảo của Như Lai thảy đều trọn đủ, chẳng bị khiếm khuyết mảy may, nên
nói là “đức vô bất
bị” (đức không ǵ chẳng trọn đủ).
Đó là ư nghĩa của Viên, có ư nghĩa viên măn, chẳng khiếm khuyết. “Tịch”: Tịch là nói
đến chướng,
chướng là ǵ? Phiền năo, c̣n
gọi là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, thảy đều đoạn sạch, hoặc như trong giáo pháp Đại
Thừa thường nói là “Kiến Tư
phiền năo, Trần Sa
phiền năo, và Vô Minh phiền
năo” thảy đều đoạn hết. Đó là Tịch.
Tịch là nói theo Đoạn Đức. Đó là ư nghĩa của hai chữ Viên Tịch.
“Hựu, Chân Giải viết” (lại nữa, sách Chân Giải nói), Chân Giải là [tác phẩm chú giải kinh Vô Lượng
Thọ] của người Nhật. Pháp sư Nhật Bản sang Trung Quốc du học,
thân cận Trí Giả đại sư, thân cận Thiện Đạo đại
sư, sau khi quay về Nhật Bản, họ chính là
những người đă làm cho
Đại Thừa Phật
giáo [tại Nhật] hưng vượng. Trong tác phẩm
chú giải kinh Vô Lượng Thọ
ấy, có mấy câu: “Nghĩa sung pháp giới, đức bị
hằng sa, vi Viên” (Nghĩa đầy ắp pháp giới,
đức trọn vẹn như cát sông Hằng là Viên), đó là ư nghĩa của Viên, cách nói này
cũng rất hay! “Nghĩa” là ǵ? Nghĩa là Lư, cũng là nói đến trí huệ và đức tướng, đầy ắp trọn khắp pháp giới. Khắp pháp giới hư không giới và
chính ḿnh là một Thể,
chỉ có người chứng đắc rốt ráo mới biết, chỉ có người chứng đắc trong
Phật pháp mới biết: Chư Phật Như Lai, vạn sự vạn vật trong vũ trụ và chính ḿnh là một Thể.
Nếu chúng ta hỏi, vạn sự vạn
vật trong vũ trụ và ta có
phải là một Thể hay
không? Thưa chư vị, là [một Thể]! Ta và bất cứ
người nào cũng đều là một Thể, ta và
bất cứ vật ǵ cũng đều là một
Thể. Tuy là một Thể, nhưng nay quư vị chẳng thừa nhận, tức
là quư vị chẳng chứng thực nó. “Chứng” là chứng thực,
chứng minh. V́ sao quư vị chẳng thể chứng
thực? V́ quư vị có phiền
năo, có tập khí, có chướng ngại. Nhà Phật nói có hai thứ chướng ngại, tức là hai loại lớn:
Một là Phiền Năo Chướng, hai là Sở Tri Chướng, có những thứ
ấy chướng ngại, khiến quư vị không thể chứng đắc. Hai thứ chướng ngại ấy
nếu đều diệt trừ, quư
vị bèn chứng đắc, hoảng nhiên đại ngộ, đúng
là một, không hai. Hiền Thủ quốc
sư có một bài luận văn hết sức nổi danh trong
giới Phật giáo là Tu Hoa
Nghiêm Áo Chỉ Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán. Bài luận văn ấy chẳng dài,
giảng về chuyện này, giảng khởi nguyên của vũ
trụ và khởi nguyên của
sanh mạng, hết thảy vạn
pháp rốt ráo là chuyện như thế nào, đặc biệt là có quan hệ ǵ với chúng ta,
giảng hết sức rơ ràng, hết sức minh
bạch. “Thể cùng chân tánh, diệu
tuyệt tướng lụy, vi Tịch” (thể cùng tột chân tánh, khéo léo dứt tuyệt hoàn toàn sự phiền lụy do vướng mắc vào h́nh tướng là Tịch). Thể là Lư Thể, triết
học hiện tại gọi nó là “bản thể” của
vạn vật trong vũ trụ, cũng có thể giải
thích được, mà chúng ta cũng có thể hiểu được,
thấu hiểu điều ǵ? Thấu hiểu chân tánh. Thể là chân tánh, chân tánh là Thể. Trong Tâm Kinh có mấy câu: “Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc, Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc”. Không là chân tánh, Sắc là tướng, chúng là một, chẳng hai! Tướng có, Thể không. Do Thể là Không, nên gọi là Chân Không. Không ở đây không
phải là chẳng có ǵ. Hiện thời, kẻ b́nh phàm
chúng ta ngỡ Không là “cái ǵ cũng không có”,
chẳng phải vậy! Không là thứ ǵ cũng đều có, điều này khó hiểu. Tướng có, Có tức là Phi Hữu, Chân Không chẳng rỗng
không. Diệu Hữu chẳng phải là
Có, Chân Không chẳng rỗng không. Đó là ư nghĩa của
Tịch, viên tịch mà! Khế nhập cảnh giới này, quư vị đắc đại tự tại. Hai chữ “diệu
tuyệt” là [nói đến] phương tiện, phương tiện thiện xảo, quư vị đắc đại tự tại trong cuộc sống, được hưởng niềm vui chân
chánh. V́ sao? Quư vị chẳng mệt mỏi. Nay chúng ta gọi mệt mỏi là áp
lực, phiền năo, lo âu, vướng mắc, những thứ này đều
thuộc vào chữ Lụy. Quư vị hoàn toàn chẳng có [phiền lụy], bèn đắc
đại tự tại trong hết
thảy cảnh duyên. “Cảnh” là hoàn cảnh vật chất, “duyên” là hoàn
cảnh nhân sự. Đắc đại tự tại trong
hoàn cảnh nhân sự và trong hoàn cảnh vật chất,
đó là ư nghĩa của chữ Tịch. Cách nói này hay
lắm, được trích từ sách Chân
Giải.
“Thượng chi kinh luận”, đối với
những điều trên đây, kinh do đức Phật nói, luận do tổ sư đại đức trước tác, “biểu Pháp Thân
đại sĩ chuyên chí Phật quả, bất trụ hôi diệt, đản vị nhiêu ích trung
hạ Nhị Thừa, thiện xảo phương tiện, nhi thị hiện nhập diệt chi tướng” (biểu thị Pháp Thân
đại sĩ chuyên dốc chí nơi Phật quả,
chẳng trụ trong “hôi thân diệt trí”,
chỉ v́ tạo lợi ích cho hàng Nhị Thừa căn tánh trung
hạ, mà dùng phương tiện thiện xảo, thị
hiện tướng nhập diệt). Đây là nói rơ hai chữ “trung
hạ”. Hạ là ǵ? Tiểu
Thừa, [“trung hạ” là] Trung Thừa và Tiểu Thừa, v́ họ mà thị hiện. Bậc thượng thượng thừa,
người Đại Thừa hiểu rơ ràng, minh bạch:
Thích Ca Mâu Ni Phật
đang diễn tuồng cho họ xem; nhưng kẻ trung hạ
căn không biết, ngỡ Thích Ca Mâu Ni Phật
thật sự diệt độ.
Ở đây, chúng ta phải học, học theo Pháp Thân đại sĩ “chuyên chí Phật quả, bất trụ
hôi diệt”. “Hôi diệt” có nghĩa là ǵ? Hôi thân diệt trí (灰身滅智) là hàng Tiểu
Thừa. Trong Phật
môn, thần thức rời khỏi thân thể, chúng
ta nói người ấy đă chết. Đă chết bèn hỏa táng, mai táng bằng lửa là “hôi
diệt”[6]. Trong kinh Tiểu Thừa thường nói đến “hôi thân
diệt trí”: Thân thể đă đốt sạch, đó “hôi thân”. Đối với hết thảy vạn pháp, chẳng
có tâm cầu lấy, đó là “diệt trí”, hôi thân diệt trí [là như vậy đó]! Pháp Thân Bồ Tát chẳng làm chuyện này, các Ngài chuyên dốc chí nơi Phật Thừa. Phật Thừa là Nhất Phật Thừa, trong
Phật môn, [thừa ấy] gọi là Nhất Thừa giáo. Nhất
Thừa giáo để nói với ai? Nói với bậc thượng thượng căn, chẳng phải để nói với Đại Thừa. Đại, Trung, Tiểu là Tam Thừa, đó là pháp phương tiện; Nhất Thừa là rốt ráo, quả rốt ráo gọi là Nhất Thừa. Xưa nay, tổ sư đại đức công nhận kinh Nhất Thừa có ba bộ, kinh điển để thành Phật
gọi là “Nhất Thừa kinh”, tức Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, và Phạm Vơng. Hoa Nghiêm và Pháp Hoa được truyền sang Trung Quốc, kinh Phạm Vơng chỉ có một phẩm, chẳng truyền toàn bộ sang Trung Quốc,
chỉ có một phẩm là Bồ Tát Tâm Giới Phẩm. Nhưng một quyển kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ chúng ta đang học đây, cũng được cổ đại đức phán định thuộc về pháp Nhất Thừa. V́ sao? Hoa Nghiêm và Pháp
Hoa đến cuối cùng mới
viên măn rốt ráo, mười đại nguyện vương của Phổ Hiền Bồ
Tát dẫn về Cực Lạc th́ kinh Hoa Nghiêm mới viên măn. Bộ
kinh này chuyên giảng về Tây Phương Cực Lạc thế giới, cũng có nghĩa là đến cuối cùng, chỗ quy túc của kinh Hoa Nghiêm và Pháp Hoa là Vô Lượng Thọ, cho nên bộ kinh này
biến thành kinh Nhất Thừa bậc
nhất trong các kinh
Nhất Thừa. Cách nói này chánh xác!
Do vậy, vào đời Thanh xưa kia, cư
sĩ Ngụy Mặc Thâm đă lấy quyển cuối cùng trong Phổ
Hiền Hạnh Nguyện Phẩm, tức là phần giảng
về mười đại nguyện
vương dẫn về Cực Lạc, đặc biệt rút ra từ trong kinh Hoa Nghiêm,
in kèm thêm vào phía sau Tịnh Độ Tam Kinh, gọi
là Tịnh Độ Tứ Kinh. Điều này đă ban cho chúng ta một khải thị rất lớn. Ông ta làm như vậy có đúng hay không? Đúng, có lư do! Quư vị thấy
hiện thời chúng ta đọc bộ kinh do lăo cư sĩ Hạ Liên Cư hội tập, chúng ta học phần này là phẩm thứ hai, [có nhan đề là] Đức Tuân Phổ Hiền. Chúng ta liền
biết Tây Phương Cực Lạc thế giới là thế giới Phổ Hiền Bồ
Tát, hễ là người văng sanh thế giới Cực
Lạc đều tu ǵ? Thảy đều tu pháp
môn Phổ Hiền. Chúng ta cũng đọc từ kinh điển, thấy kinh điển đă dạy: Bồ Tát chẳng tu pháp Phổ Hiền, sẽ chẳng thể viên thành Phật
đạo. Do vậy, bất cứ vị Bồ Tát nào cũng phải học tập pháp Phổ Hiền th́ mới có thể thành Phật. Chẳng tu hạnh Phổ Hiền, chẳng thể thành Phật! Thế giới Cực Lạc hoàn toàn là tu Phổ Hiền hạnh. V́ thế, kinh Vô Lượng Thọ và kinh Hoa Nghiêm b́nh đẳng. Trong niên hiệu Càn Long, cư
sĩ Bành Tế Thanh đă nói: “Kinh Vô Lượng Thọ chính là Trung Bổn Hoa Nghiêm”. Ông ta thốt ra lời ấy. Nói cách khác, kinh Hoa Nghiêm là Đại Bổn Vô Lượng Thọ Kinh; lại c̣n có Phật Thuyết A Di Đà Kinh,
đó là Tiểu Bổn Hoa Nghiêm.
Kinh Vô Lượng Thọ là Trung Bổn
Hoa Nghiêm. Đánh giá ba bộ kinh ấy ngang nhau, hoàn toàn b́nh đẳng, từ chỗ này chúng ta biết giá trị của bộ kinh [Vô Lượng Thọ] này.
Từ nay về sau, pháp
vận của đức Phật hăy c̣n chín ngàn năm. Tổ tiên người Trung Quốc hết
sức coi trọng lịch sử, khác với người Ấn Độ. Người Ấn Độ quả thật chẳng coi trọng
lịch sử, mà coi
trọng giáo huấn của cổ thánh tiên hiền, đời đời truyền thừa. Nhưng tại Trung Quốc, theo ghi chép của cổ thánh tiên hiền, Thích Ca Mâu Ni Phật
sanh nhằm thời Chiêu Vương nhà Châu của Trung Quốc, tức là vào năm Giáp Dần, nhằm năm thứ hai mươi bốn đời Châu Chiêu Vương, Thích Ca Mâu Ni Phật
giáng sanh. Thích Ca
Mâu Ni Phật viên tịch nhằm năm thứ năm mươi ba đời Châu Mục Vương. Nếu theo cách tính này, từ lúc Thích Ca Mâu Ni Phật viên tịch cho tới hiện thời là ba ngàn lẻ ba mươi bảy
năm. Đó là cách ghi chép của người Trung Quốc, khác với cách ghi chép của
người ngoại quốc. Pháp vận của Thích Ca Mâu Ni Phật
là một vạn hai ngàn năm, Chánh Pháp một ngàn năm, Tượng Pháp một ngàn năm, đă hai ngàn năm trôi qua. Phật pháp truyền đến Trung Quốc nhằm thời kỳ Tượng Pháp, cũng có nghĩa là Thích Ca Mâu Ni Phật diệt độ một ngàn năm, Phật pháp truyền đến
Trung Quốc vào thời Tượng Pháp. Mạt Pháp là một vạn năm, một ngàn năm đầu tiên đă qua, hiện thời là một ngàn năm thứ hai, đă qua ba mươi bảy năm, thời gian vẫn c̣n rất dài. V́ thế, rất nhiều tôn giáo khác nói đến tận thế, Phật giáo chẳng có thuyết tận thế. Pháp vận của Thích Ca Mâu Ni Phật
hăy c̣n chín ngàn năm nữa, một ngàn năm thứ hai mới được ba mươi bảy năm. Pháp vận của Phật giáo có hưng, có suy, đó
là hiện tượng b́nh thường; có hưng, có suy, nhưng
chẳng bị diệt. Đến lúc nào sẽ diệt? Sau chín ngàn năm nữa, Phật pháp mới bị diệt, bị tiêu diệt
trong thế gian
này. Bị diệt cuối cùng là bản kinh chúng ta đang học ở đây. Sau khi bản này diệt, c̣n sót lại sáu chữ “Nam-mô A Di Đà Phật” trong nhân gian, c̣n lưu lại một trăm năm. Chúng ta liễu giải sự thật này
th́ tín tâm đối với việc học Phật mới có thể tăng trưởng.
Thế gian này có tai
nạn hay không? Khẳng
định là có. Tai nạn phát
sanh như thế nào? Trong kinh, đức Phật đă dạy,
do tâm hạnh bất thiện của cư dân ở nơi ấy chiêu cảm, như Thái Thượng
Cảm Ứng Thiên đă nói: “Họa, phước chẳng có cửa, chỉ do con người
tự chuốc lấy”. Chiêu phước như thế nào? Cư dân nơi ấy tâm địa thiện lương,
hành vi thiện lương, phước bèn đưa đến, tai tiêu, phước đến. Nếu tâm hạnh
của cư dân nơi
ấy bất thiện, trái nghịch luân lư, đạo đức, nói theo văn hóa truyền
thống Trung
Quốc là tư tưởng và ngôn hạnh của chúng ta trái phạm Ngũ Luân, Ngũ
Thường,
Tứ Duy, Bát Đức, bèn chẳng có phước, phước tiêu tan,
họa xảy đến, tai nạn đưa đến là do đạo lư như thế đó. Nếu ngược lại, chúng ta khởi tâm
động niệm, ngôn ngữ tạo tác đều có thể tương ứng với bốn khoa mục ấy,
cũng như chúng ta nghiêm túc học tập Ngũ Luân, Ngũ Thường, Tứ Duy, Bát Đức, tai họa bèn tiêu tan, phước đưa đến, đạo lư là như thế đó. Đạo lư ấy rất sâu! Vô cùng
khó có, những nhà khoa học
ngoại quốc gần đây, tức các nhà Lượng Tử Vật Lư Học đă chứng thực chuyện này. Họ nói tâm thái có thể biến đổi hết thảy, kể
cả hoàn cảnh, giống như đức Phật dạy. Từ ba ngàn năm trước, đức Phật đă nói [như thế], hiện thời họ mới phát hiện, họ nói rất hay! Nếu có thể phổ biến chuyện này, trọn khắp mọi người đều biết, đối với những tai nạn trên địa cầu hiện thời, chúng ta có khả năng và năng
lực hóa
giải
chúng, bất b́nh thường cũng có thể khôi phục b́nh thường. V́ thế, chúng tôi cũng khuyên lơn những nhà khoa học
hăy nên nghiên cứu Phật học. Nếu họ nghiên cứu, chắc chắn sẽ khiến cho khoa học tăng cao trên một mức độ lớn, chúng ta phải có tín tâm!
Tôi thường nói,
trong kinh có ba câu chẳng thể không nhớ. Câu đầu tiên là đức Phật nói: “Hết thảy các pháp sanh từ tâm
tưởng”. Các nhà Lượng Tử Lực Học cận đại nói điều này là “ư niệm làm chúa tể
hết thảy”, c̣n Phật pháp nói “hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng”.
Họa, phước chẳng có cửa, do chính quư vị nghĩ như thế nào. Hễ quư vị nghĩ tới thiện, thiện đưa đến. Nếu quư vị nghĩ tới bất thiện, tai họa xảy
đến. Không phải là có một chúa tể nào khác, mà chính ḿnh là chúa tể, chớ
nên không biết điều này. Hai câu khác hết sức hiện thực: “Tướng do tâm sanh” và “cảnh chuyển theo tâm”. Thật sự triệt để liễu giải những đạo lư và chân tướng sự thật này, chúng ta yên tâm thoải mái, hiểu rơ đạo lư. Trong hoàn cảnh, tâm quư vị an định, chẳng bị lay động bởi cảnh giới bên ngoài. Biết “tướng do tâm sanh” th́ đối với thân
thể và t́nh trạng sức khỏe của chúng ta, chỉ cần tâm tánh
thiện lương, chỉ cần ư
niệm tốt đẹp, hành vi tốt đẹp, quư vị suốt
đời chẳng ngă bệnh, tuổi
cao đến mấy vẫn chẳng già yếu, tướng do tâm sanh mà! Nếu ư niệm bất thiện, trong tâm đầy ắp tham, sân, si, danh vọng, lợi dưỡng, ngũ
dục, lục trần. Tham, sân, si, mạn là gốc bệnh, há lẽ nào chẳng ngă bệnh! Nhất định phải chuyển những ư niệm ấy. Ư niệm đă chuyển, thân tâm khỏe mạnh,
gia đ́nh ḥa thuận, sự nghiệp thuận lợi, xă
hội an tường, ḥa b́nh, kể cả những tai nạn trên địa cầu cũng có thể hóa giải, có đạo lư to lớn trong ấy!
V́ thế, các vị Pháp Thân đại sĩ chuyên chí nơi Phật quả. Chí hướng và tâm nguyện của chúng ta phải chuyên, suốt đời này chúng ta cầu điều ǵ? Cầu thành Phật; học Phật
là muốn thành Phật. Thành Phật như thế nào? Thích Ca Mâu Ni Phật đă nêu gương, chúng ta có
thể y giáo phụng hành, sẽ có thể đạt tới hiệu quả giống như Ngài. “Bất
trụ hôi diệt” là chẳng giống Tiểu Thừa, “hôi thân diệt trí” là tiêu cực. V́ sao Thích Ca Mâu Ni Phật
thị hiện tướng này? Nhằm lợi ích hàng Nhị Thừa trung hạ
căn. V́ sao nói là lợi ích? Tiếp đó, có nói rơ, có giải thích, đó là do phương tiện
thiện xảo, Ngài bèn thị hiện tướng nhập diệt, chẳng phải là thật sự. Tiếp đó, [sách Chú Giải] giải thích, “như Pháp Hoa Thọ Lượng phẩm
viết: Nhược Phật cửu trụ ư thế,
bạc đức chi nhân, bất chủng thiện căn,
bần cùng hạ tiện, tham trước ngũ dục,
nhập ư ức tưởng vọng kiến vơng trung” (như phẩm Thọ Lượng trong kinh Pháp Hoa đă nói: “Nếu Phật trụ lâu dài trong cơi đời, kẻ đức mỏng, chẳng gieo thiện
căn, nghèo túng, hèn kém, tham đắm ngũ dục, lọt vào lưới ức tưởng, kiến giải sai lầm”). Đó là ǵ? Nếu Phật trụ lâu dài trong thế gian, đúng là “kẻ đức mỏng chẳng gieo thiện căn”. V́ sao? Phật thường
trụ, [những kẻ ấy sẽ nghĩ] chẳng có ǵ gấp gáp! Hôm nay đă qua th́ hăy c̣n có ngày mai, năm nay đă
qua th́ c̣n có năm sau, chẳng
học Phật không sao cả! Sang năm mới học, dẫu sao Phật vẫn c̣n đó mà! Nếu Phật chẳng c̣n nữa, họ bèn lo âu, chẳng thể không thật sự hành. Trong tâm người b́nh phàm đều có khuyết điểm này. Lấy thí dụ trước mặt để nói, năm xưa tôi theo học Giáo với thầy Lư tại Đài Trung, tôi nghiêm túc hơn kẻ khác. V́ sao? Tôi chẳng phải là người Đài Trung, tôi đến Đài Trung để học tập, thời gian có hạn. Các đồng học ở Đài Trung thấy thầy ở đó chẳng đi đâu, bèn giải đăi, họ chẳng dụng công siêng gắng như tôi. V́ tôi biết tôi có thể phải ra đi bất cứ lúc nào, có được thời gian một
ngày th́ phải nghiêm túc nỗ lực học chăm chỉ một ngày. Họ
chẳng có ư nghĩ ấy, [cứ nghĩ] thầy thường ở chỗ này, hăy c̣n có ngày mai, c̣n có năm sau, ngày tháng mai sau hăy c̣n rất dài, đạo lư là như thế đó! Tôi học thành tựu ở nơi đó, nhưng họ học chẳng thành tựu, nguyên nhân là như trong kinh văn này đă nói. V́ thế, đối với những kẻ ấy, đức Phật chẳng thể không thị hiện diệt độ. Hễ thị hiện diệt độ, bèn độ rất nhiều người. Thầy
đă mất, tṛ bèn nghĩ phải làm sao? Trước kia, thầy dạy ǵ? Suy nghĩ kỹ càng, bèn nghiêm túc học tập, [sự thị hiện diệt độ ấy] có thể kích thích, phát khởi một số người giác ngộ, thông hiểu. V́ thế, thị hiện diệt
độ cũng là một phương pháp nhằm giúp đỡ chúng sanh giác ngộ. Kẻ sắp ngộ, nhưng vẫn chưa khai ngộ, [do thấy đức Phật] vừa thị hiện diệt độ bèn khai ngộ. Thuở trước, khi tôi mới học Phật, thân cận Chương Gia đại sư.
Mỗi tuần, đại
sư dành cho tôi hai giờ. Ngày Chủ Nhật, tôi được nghỉ, đến t́m Ngài, thỉnh giáo lăo nhân gia. Ba năm sau, lăo nhân gia văng
sanh. Để hỏa táng, [các môn đệ] đặc biệt tạo riêng một ḷ thiêu. Khi ấy, có Cam Châu Hoạt Phật dựng lều bên cạnh ḷ thiêu. Tôi cũng dựng lều ở cạnh đó ba ngày, trong ba
ngày, nghiêm túc tư duy, trong ba năm thầy đă dạy tôi những ǵ, tôi học được điều ǵ? Nghiêm túc phản
tỉnh. Nếu lăo nhân gia thường hiện hữu, chúng tôi sẽ không thể nghiêm túc suy nghĩ vấn đề này. V́ vậy, Ngài vừa ra đi, đối với tôi chính là “một
gậy, một tiếng hét giáng vào đầu cảnh
tỉnh”. Cũng may là thời gian ba năm tuy không dài, nhưng căn cơ học Phật của tôi đă được đặt vững; về sau, thân cận thầy Lư mười năm, mới có một chút thành tựu. Nếu
chẳng có ba năm đặt vững căn cơ ấy, dù ở trong hội của thầy Lư mười năm, tôi cũng chẳng thể có thành tựu. V́ vậy, các thứ thị hiện, đối với người học tập chúng ta mà nói, nói theo phía học tṛ, đều có lợi ích rất thù thắng!
Mấy câu này nói rất hay. “Kẻ
đức mỏng” chẳng
phải là nói kẻ ấy thiếu đức hạnh, mà là không đủ dầy để chống lại tập khí phiền năo! “Không gieo thiện căn”,
thiện căn là ǵ? Thập Thiện Nghiệp Đạo. Thập Thiện
Nghiệp Đạo có thể sanh ra
hết thảy các thiện pháp thế gian và
xuất thế gian, nên gọi là “thiện căn”. Hiện thời Phật pháp suy vi, suy
ở chỗ nào? Mọi người chẳng gieo thiện căn. Bất luận tại gia hay xuất gia, chẳng học Thập Thiện Nghiệp Đạo đàng hoàng, chẳng thực hiện. Xuất gia không chỉ phải
thực hành Thập Thiện Nghiệp, mà c̣n phải thực hành Sa Di Luật Nghi. Nếu chẳng thể thực hiện Sa Di Luật Nghi th́ chẳng phải là kẻ xuất gia, là giả, chẳng thật. “Bần cùng hạ tiện” là từ ngữ h́nh dung, bần cùng ǵ vậy? Đạo nghiệp
bần cùng, Tam Học Giới - Định - Huệ bần cùng, quư vị chẳng có. Không phải là nói về của cải thế gian, không phải nói về những thứ ấy, mà nói về Tam Học Giới - Định - Huệ, đối với điều
này, quư vị thiếu khuyết quá nhiều! “Tham trước ngũ dục” (tham đắm ngũ
dục), ngũ dục là tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ
nghỉ. “Nhập ư ức tưởng, vọng kiến vơng trung” (lọt vào lưới ức tưởng, kiến giải sai lầm). Suốt ngày ảo tưởng,
chúng ta thường nói là tâm hạnh, tính t́nh bộp chộp. “Nhược
kiến Như Lai
thường tại bất diệt, tiện khởi kiêu tứ, nhi hoài yếm đăi, bất năng sanh nan tao chi tưởng, cung kính chi tâm” (nếu thấy Như Lai thường hiện hữu, chẳng diệt độ, liền sanh ḷng kiêu căng, ôm ḷng chán ngán, lười nhác, chẳng thể sanh ư tưởng khó gặp gỡ và tâm cung kính). Nếu Như Lai thường
trụ, học tṛ sẽ nẩy sanh những quan niệm sai lầm, kiêu mạn, đối với việc
học tập dần dần sẽ chán ngán, lười nhác, cảm thấy chán ghét, những điều này đều là do chẳng gieo thiện căn. Quư vị truy cứu nguyên nhân căn bản th́ là v́ kẻ ấy thiếu thiện căn. V́ thế, ba căn bản ấy vô cùng trọng yếu. V́ sao thời
cổ, chẳng cần nói rất lâu, một trăm năm trước, một
thế kỷ trước, người học Phật bất luận tại gia hay xuất gia đều có thể thành tựu, nguyên nhân ở chỗ
nào? Thiện căn
sâu dầy. Đối với thầy, thật sự có ḷng cung kính, tôn sư trọng đạo, hiếu thuận cha mẹ, căn cội được vun bồi ổn thỏa. Trong xă hội hiện tại, chẳng thấy chuyện này nữa! Trẻ nhỏ chẳng hiếu thuận cha mẹ, không
tôn trọng thầy, nên hiện thời t́m chẳng được một vị thầy tốt. Không có một vị thầy tốt, cũng tức là sư đạo chẳng c̣n nữa. Chư vị nhất
định phải biết: Sư đạo được kiến lập trên cơ sở hiếu đạo. Chẳng có hiếu đạo, sẽ chẳng có sư đạo. Hiện thời, chúng ta mong có một chút thành tựu trong Phật
môn, chẳng thể không học bổ sung các khóa tŕnh ấy. Nay nói đến chuyện học bù th́ phải học bổ
sung các khóa tŕnh ấy. Bổ sung Thập Thiện
Nghiệp Đạo, nhưng v́ sao hiện
thời chẳng thể thực hiện Thập Thiện Nghiệp Đạo? Thập Thiện
Nghiệp Đạo c̣n có cội
rễ. Cội rễ của Thập Thiện Nghiệp Đạo là ǵ? Thái Thượng Cảm Ứng Thiên là cội rễ của Thập Thiện Nghiệp Đạo. Thái Thượng Cảm Ứng Thiên c̣n có cội rễ, là ǵ vậy? Đệ
Tử Quy là cội rễ của Thái Thượng Cảm Ứng Thiên. V́ thế, hiện thời chúng ta phải học từ Đệ Tử Quy, Cảm Ứng Thiên, Thập Thiện Nghiệp, phải học từ chỗ này. Đệ Tử Quy giống như tầng thứ nhất trong xây nhà. Cảm Ứng Thiên là tầng thứ hai, Thập Thiện Nghiệp Đạo là tầng thứ ba. Không có tầng thứ nhất, lấy đâu ra tầng thứ hai? Quư vị phải biết cách học như thế nào! Sau khi đă có ba tầng ấy, người xuất gia lại
c̣n thêm Sa Di Luật Nghi, là tầng thứ tư. Sau đấy, bất luận học Nho, học Đạo,
học Phật, đều có thành
tựu. Học Nho có thể thành thánh, thành hiền, học Đạo có thể thành thần, thành tiên, học Phật có thể thành Phật, có thể thành Bồ Tát. Chẳng có căn th́ làm sao được nữa? Căn quá trọng yếu!
Dẫu cho chúng ta hiện thời nói tới niệm Phật văng sanh Tịnh Độ, nhưng nếu quư vị chẳng học Thập Thiện
Nghiệp Đạo, sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới sẽ chẳng thành công! V́ sao? Thích Ca Mâu Ni Phật
giới thiệu Tây Phương Cực
Lạc thế giới cho chúng ta, có một câu rất trọng yếu, quyết định chớ nên coi thường. Ngài nói người trong thế giới Cực
Lạc đều là “chư
thượng thiện nhân câu hội nhất xứ”. Những ai tới đó? Thượng thiện. Thiện ở đây là Thập Thiện, [“thượng thiện” là] thượng
phẩm Thập Thiện.
Người b́nh phàm tu thượng phẩm Thập Thiện quá nửa sanh trong trời
Đao Lợi, chẳng mong thoát khỏi lục đạo luân hồi bèn sanh trong Đao
Lợi. V́ thế, đó là điều kiện tiêu chuẩn để sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới. Sau đó c̣n có những thứ mà người văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới nhất
định phải tu, tức là thiện căn, phước
đức, nhân duyên! [Kinh Di Đà dạy]“chẳng thể do chút ít thiện căn, phước
đức, nhân duyên, mà
được sanh về cơi ấy”. Câu này trọng yếu lắm! Quư vị phải có thiện căn, phải có phước đức. Nhân
duyên, duyên phận là gặp gỡ. Quư vị gặp kinh điển này, gặp pháp
môn này, tức là quư vị có nhân duyên. Thiện căn là ǵ? Có thể tin, có thể hiểu. Phước đức là ǵ? Thật sự làm. “Thật sự làm” bao gồm
cả ba căn cội, tức Đệ Tử Quy, Cảm Ứng Thiên, và Thập Thiện Nghiệp. Nếu quư vị chẳng thật sự làm, thật sự học, vẫn chẳng thể đến Tây Phương Cực Lạc thế giới được! Chớ nên không biết điều này. Phật chẳng lừa chúng ta, kinh đă nói rơ ràng, rành rẽ; đến khi ấy chẳng thể văng sanh, chính
ḿnh phải chịu trách nhiệm. Thật
sự là người hiểu lư, hiểu rơ và minh bạch
các đạo lư thế gian và xuất thế gian, mới
biết: Bất cứ những gặp gỡ trong đời mỗi người đều do chính ḿnh chịu trách nhiệm,
đều là tự làm, tự chịu! Chẳng phải là do Thượng Đế đến làm chủ. Chẳng có lẽ ấy! Phật, Bồ Tát phù hộ, cũng chẳng có đạo lư ấy. Phật, Bồ Tát gia hộ là Phật, Bồ Tát dạy quư
vị những thứ để quư vị tự gia hộ. Quư vị nghe xong, đă
hiểu, học đă hiểu rồi, bèn chiếu theo đó để làm, đó chính là Phật, Bồ Tát gia hộ quư
vị. Nếu không thật sự chịu
làm, quư vị lại bỏ lỡ đời này mất rồi!
Nhất là trong hiện tại, tai nạn rất nhiều. Đối với các chúng sanh tử
vong v́ tai nạn, đạo tràng chúng ta tu hành mỗi ngày, giảng kinh ở đây đều hồi hướng cho họ. Những người ấy qua đời, đi về đâu? Đều là theo nghiệp
lưu chuyển, đó mới là đại sự thật sự. Điều khó bậc nhất trong đời người, đại sự bậc nhất là gặp gỡ Phật pháp. Sau khi đă
gặp, có thể tin, có thể hiểu, có thể y giáo phụng hành, đời này có thể vĩnh
viễn thoát luân hồi. Không chỉ thoát luân hồi, mà c̣n vĩnh viễn thoát khỏi
mười pháp giới. Đến Tây Phương Cực
Lạc thế giới, bất
luận là văng sanh trong phẩm
vị nào, [đều được] bổn nguyện và oai thần
của A Di Đà Phật gia tŕ, đều là A Duy Việt Trí Bồ Tát, tuyệt diệu thay! Quư
vị thật sự muốn văng sanh, hăy vun bồi vững chắc ba căn cội, tức là Đệ Tử Quy, Cảm Ứng Thiên, Thập Thiện Nghiệp, phải thật sự làm
được; sau đấy, phát tâm, nhất tâm niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, không
một ai chẳng văng sanh. Những điều kiện như kinh đă dạy chúng ta đều hội đủ, điều này vô cùng trọng yếu.
V́ vậy, đức Thế Tôn thị hiện tướng diệt độ thứ tám, không ǵ chẳng nhằm khiến cho chúng sanh khởi lên ư tưởng khó gặp gỡ, dấy lên tâm cung kính. “Thị cố Như Lai tuy bất thật diệt, nhi ngôn diệt độ” (do vậy, Như Lai tuy chẳng thật sự diệt, mà nói là diệt độ). Đó là nói thật với quư vị.
Đức Phật có diệt độ hay không? Không có! Đó là làm ra dáng vẻ cho người căn tánh trung hạ
thấy. “Phi diệt hiện diệt, cố vân thị hiện” (chẳng phải là diệt độ, mà hiện diệt độ, nên nói là Thị Hiện), chẳng phải là thật. “Tác thử thị hiện, vị độ trung hạ chi cơ cố. Nhược thị
thượng căn, tắc kiến Như Lai vô sở tùng lai,
diệc vô sở khứ, bổn ly sanh diệt, hà hữu Niết Bàn” (thị hiện điều này nhằm độ căn cơ trung hạ. Nếu là bậc thượng căn sẽ thấy Như Lai chẳng
từ đâu đến, mà cũng chẳng đi về đâu, vốn ĺa sanh diệt,
há có Niết Bàn). Đúng
vậy! Kinh Kim Cang đă giảng về Như Lai, “vô sở tùng lai,
diệc vô sở khứ” bèn gọi là Như Lai, đó là thật, đạo lư này rất sâu. Kinh Hoa Nghiêm đă
giảng thấu triệt; thật ra, mỗi người chúng ta đều như nhau, xác thực chẳng khác ǵ Phật. Chỉ v́ chúng ta mê muội, bất giác, c̣n đang tạo tội
nghiệp; chư Phật, Bồ Tát giác chứ không mê, đắc đại tự tại, xác thực cùng chúng ta ḥa quang đồng trần. Trên thực tế, các Ngài chẳng nhiễm mảy tần. “Thị cố, Tùy Trí Giả đại sư độc Pháp Hoa Dược Vương phẩm, thân kiến Linh Sơn nhất hội nghiễm nhiên vị tán” (do vậy, đời Tùy, Trí Giả đại sư đọc phẩm Dược Vương kinh Pháp Hoa, đích thân thấy một hội Linh Sơn nghiễm nhiên chưa tan), thật đấy, chẳng giả đâu! Quư vị nói Thích Ca Mâu Ni Phật
đă diệt độ, nay Thích Ca Mâu Ni Phật vẫn đang giảng kinh Pháp Hoa tại núi Linh Thứu.
Trí Giả đại sư là
người đời Đường[7], cách Thích Ca Mâu Ni Phật hơn một ngàn năm. Quư vị thấy Ngài đọc kinh Pháp Hoa, đọc đến phẩm Dược Vương bèn nhập Định. Trong Định, đột phá các chiều của thời gian và không gian, thấy Thích Ca Mâu Ni Phật đang giảng kinh Pháp Hoa
tại núi Linh Thứu. Ngài c̣n nghe giảng hết một khóa, tức là nghe hết một buổi giảng, trở về xuất Định, kể với mọi người: Thích Ca Mâu Ni Phật
ở tại Linh Sơn, một hội kinh Pháp Hoa cho tới nay vẫn chưa tan, c̣n đang tiếp tục giảng. Con người có thể
trở về quá khứ, và cũng có thể
tiến nhập tương lai. Có công phu Thiền
Định là được!
Do vậy, những điều được nói trong kinh điển của Thích Ca Mâu Ni Phật, nếu nói theo tiên sinh Phương Đông Mỹ, sẽ là triết học cao nhất, khoa học
cao nhất. Những vấn đề mà triết học và khoa
học hiện tại chẳng thể giải quyết, trong kinh Phật đă có toàn bộ [những giải pháp]. Do tôi học Phật, được thầy giới thiệu, kinh Phật là đỉnh cao nhất
trong triết học của toàn thể thế giới. Thuở ấy, tôi học Triết với thầy, tôi chẳng theo thầy học Phật pháp. Thầy bảo tôi, Thích Ca Mâu Ni Phật là triết gia vĩ đại nhất trên thế giới.
Tôi đă học năm mươi chín
năm, nay đă phát hiện: Không chỉ là triết học cao nhất, mà cũng là khoa học
cao nhất. Các nhà Vật Lư hiện đại phát hiện Lượng Tử, nhưng trong kinh Phật đều có, c̣n nói rơ ràng và viên măn hơn họ. Đức Phật thấy bằng cách nào? Thấy trong Định. Trong Định, tất cả các chiều không gian [khác nhau] đều bị đột phá toàn bộ, chính mắt thấy, chẳng cần dùng máy móc. Hôm nay đă hết thời gian rồi, chúng ta học tập tới
đây.
Tịnh
Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa
Phần 60 hết
[1] Theo hành chánh của Đài Loan, khoa
trưởng là một viên chức quản trị hành chánh
cấp thấp. Nếu dựa theo hệ thống cấp
bậc trong chính phủ Trung Hoa Dân Quốc th́ cao nhất là
Thủ Tướng (Quốc Vụ Viện Tổng Lư), Khoa
Trưởng được xếp vào cấp thứ chín
đếm từ trên xuống, tương ứng với
Nha Trưởng trong một cơ cấu chánh phủ. Chúng
tôi đoán Khoa Trưởng được dùng ở đây
có lẽ là người đứng đầu tiểu ban
tôn giáo của chính phủ.
[2] Tứ Giáo Nghi Tập Chú do ngài Mông
Nhuận soạn vào đời Nguyên. Sách này căn cứ
theo giáo nghĩa của phái Sơn Gia trong tông Thiên Thai
để chú giải bộ Tứ Giáo Nghi của Thiên Thai
đại sư. Tác phẩm này tinh xác, rất thuận tiện
cho kẻ sơ học, nên lại được ngài Tánh
Quán đời Thanh chú sớ thêm, tạo thành bộ Tứ
Giáo Nghi Chú Vựng Bổ Phụ Hoằng Kư.
[3] Trong các chú giải kinh Pháp Hoa, kể
cả bộ Pháp Hoa Luân Quán của tổ Ngẫu Ích
đều giảng rơ người Tây Trúc gọi ngựa là
“bạch ngưu”. Ở
đây, chúng tôi vẫn dùng ba chữ “dê, nai, ngựa” theo cách
dịch phổ biến của người Việt khi
dịch đoạn kinh văn này.
[4] Tích Sa Tạng là Đại Tạng Kinh
được khắc vào thời Nam Tống; do nơi
khắc kinh là Diên Thánh Viện tại Tích Sa Châu thuộc
phủ B́nh Giang (nay là Ngô Huyện, tỉnh Giang Tô), nên
gọi là Tích Sa Tạng. Không rơ bản này được
khắc bắt đầu từ khi nào. Do chùa bị cháy
giữa chừng nên việc khắc ván bị gián
đoạn, măi cho đến năm 1322 mới khắc
xong. Năm 1929, ông Châu Tử Kiều phát hiện các mộc
bản gần hoàn chỉnh của tạng này tại chùa
Ngọa Long và chùa Khai Nguyên, bèn đem về Thượng
Hải, hợp lực cùng các ông Đinh Phước
Bảo, Tưởng Duy Kiều, Lư Kinh Vĩ để
hiệu chỉnh và ấn hành. Với sự giúp sức
của tỳ-kheo Phạm Thành, họ t́m được
phần thất lạc tại chùa Quảng Thắng ở
huyện Triệu Thành. Bản in Đại Tạng Kinh này
được Âu Dương Cánh Vô viết lời tựa
giới thiệu duyên khởi.
[5] Cao Ly Tạng, gọi đầy đủ
là Bát Vạn Cao Ly Đại Tạng Kinh (Palman Goryo Daejanggyeong)
được khắc in vào thế kỷ 13, hiện
thời mộc bản c̣n được tàng trữ
tại chùa Hải Ấn (Haeinsa) thuộc tỉnh Quảng
Thượng Nam Đạo (Gyeongsangnam-do), Hàn quốc.
Tạng này được khắc dựa theo Đại
Tạng Kinh đời Tống, khởi sự khắc vào
năm 1087, nhưng bị thiêu hủy khi quân Mông Cổ
tấn công Cao Ly. Vua Cao Tông (Gojong) của vương triều
Cao Ly đă cho giảo chánh và khắc lại lần nữa
vào năm 1235, và phải mất 16 năm mới
hoàn thành. Mộc bản của Cao Ly Đại
Tạng Kinh được coi là quốc bảo của
Đại Hàn. Do tính chân xác của Đại Tạng Kinh
này, các bản in hiện thời của Đài Loan và Hoa
Lục phần lớn dựa theo bản này.
[6] “Hôi” (灰) có nghĩa là tro. Do hỏa táng chỉ
c̣n lại tro, nên gọi là “hôi
diệt” hoặc “hôi thân”. Hiểu
theo nghĩa rộng là thân chẳng trụ trong thế gian,
tâm trí nguội lạnh, đắm ch́m trong niềm vui tịch
diệt nơi Thiên Chân Niết Bàn nên gọi là “hôi thân diệt trí”.
[7] Ở đây, ḥa thượng có lẽ
nói nhầm chữ Tùy thành Đường, v́ tổ Trí
Khải sanh năm 538 (tức năm Đại Đồng
thứ tư đời Lương Vũ Đế),
tịch năm 597. Năm 597 là năm thứ 17 trong niên
hiệu Khai Hoàng của Tùy Văn Đế. Ngài sống qua
các triều đại Lương, Trần và Tùy, nhưng
viên tịch trước khi nhà Đường thành lập
vào năm 618 (khi Lư Uyên xưng đế).